Thứ năm, ngày 21 tháng 11 năm 2024
19:38 (GMT +7)

Văn học Pháp trong các nghiên cứu của Lộc Phương Thủy (từ 1986 đến nay)

LTS: Là một nghiên cứu viên cao cấp chuyên ngành Văn học Pháp thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu của GS.TS Lộc Phương Thủy đã mang đến cho độc giả những hình dung phong phú, đa dạng về văn học Pháp từ cuối thế kỷ XIX xuyên suốt thế kỷ XX, ở nhiều thể loại, trên cả phương diện sáng tác và phê bình văn học.

Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên số 23, 24 đăng tải bài nghiên cứu “Văn học Pháp trong các nghiên cứu của Lộc Phương Thủy (từ 1986 đến nay)” của PGS.TS Cao Thị Hồng. Bài viết hướng đến luận giải một số nội dung cơ bản trong các nghiên cứu của Lộc Phương Thủy: Văn học Công xã Paris, Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX; Quan niệm văn chương và đặc biệt là phê bình văn học Pháp thế kỷ XX.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

GS.TS Lộc Phương Thủy (sinh năm 1949 tại Yên Bái), bút danh Phương Lộc, nguyên Trưởng ban Văn học thế giới (nay là Phòng Văn học nước ngoài) của Viện Văn học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (nguồn: http:khoavan.dhsptn.edu.vn)

I. MỞ ĐẦU

Thời kỳ đổi mới và hội nhập (từ 1986 đến nay), với nhiều cơ hội thuận lợi do thời đại mang lại, tinh thần tiếp thu tinh hoa của văn học nước ngoài (trong đó có văn học Pháp) để làm giàu thêm vốn văn hóa của dân tộc đã được nhiều dịch giả và các nhà nghiên cứu quan tâm. Có thể kể đến các tác giả: Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Văn Chính, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh, Phùng Văn Tửu, Đào Duy Hiệp, Hoàng Nhân, Thái Thu Lan, Liễu Trương, Đào Trọng Thức... và Lộc Phương Thủy cũng là một trong những nhà nghiên cứu đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Pháp ở Việt Nam.

Các công trình do Lộc Phương Thủy nghiên cứu (hoặc chủ biên, đồng chủ biên) về văn học Pháp như: Từ một góc nhìn về giao lưu văn học Việt - Pháp (1999), André Gide - Đời văn và tác phẩm (2002), Lịch sử văn học Pháp - Thế kỷ XIX (1990), Lịch sử văn học Pháp - Thế kỷ XX (1992), Phê bình văn học Pháp thế kỷ XX (chủ biên, 1995), Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ XX (chủ biên, 2005), Lý luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, 2 tập (chủ biên, 2007), Văn học hậu hiện đại - Diễn giải và tiếp nhận (2013), Tiếp nhận văn học nghệ thuật (2013), Xã hội học văn học (Đồng tác giả, 2014), Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài - Kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại (Đồng chủ biên, 2015)... tất cả đều cho thấy một tinh thần nỗ lực đóng góp cho việc truyền bá, lan tỏa văn học Pháp ở Việt Nam ở thời kỳ đổi mới và hội nhập thế giới trên mọi phương diện (trong đó có hội nhập văn hóa).

Tiếp cận tác phẩm của Lộc Phương Thủy, chúng ta có thể hình dung được bức tranh toàn cảnh, phong phú, đa dạng, có “điểm” có “diện” về văn học Pháp từ cuối thế kỷ XIX xuyên suốt thế kỷ XX ở nhiều thể loại trên cả phương diện sáng tác và phê bình văn học. Tựu trung, có thể thấy nhà nghiên cứu tập trung giới thiệu, luận giải những nội dung cơ bản sau đây: Văn học Công xã Paris; Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX; Quan niệm văn chương và đặc biệt là phê bình văn học Pháp thế kỷ XX.

Trên cơ sở nghiên cứu văn học Pháp từ nhiều góc nhìn khách quan, khoa học “hết sức bền bỉ và một tinh thần khiêm tốn học hỏi” (Hồ Tôn Trinh) Lộc Phương Thủy đã có nhiều đúc kết, đánh giá xác đáng về sự nghiệp của các nhà văn Pháp và vai trò quan trọng, sự ảnh hưởng không nhỏ của văn học Pháp đối với văn học hiện đại Việt Nam.

Tìm hiểu Văn học Pháp trong các nghiên cứu của Lộc Phương Thủy (từ 1986 đến nay) chúng tôi hướng đến luận giải một số nội dung cơ bản trên, từ đó thấy rõ hơn giá trị các nghiên cứu, giới thiệu văn học Pháp của Lộc Phương Thủy đối với văn học ở Việt Nam (thời kỳ đổi mới và hội nhập). Qua đây, chúng tôi cũng muốn khẳng định: Ở mỗi giai đoạn lịch sử, việc tiếp nhận - giới thiệu văn học Pháp ở nước ta có những đặc thù khác nhau, song ở thời kỳ đổi mới và hội nhập, thành tựu của các nhà nghiên cứu Việt Nam (trong đó có Lộc Phương Thủy) thêm một lần nữa cho thấy việc tiếp thu tinh hoa văn học Pháp để làm giàu vốn văn hóa dân tộc nói chung và văn chương nói riêng là một vấn đề mang tính quy luật tất yếu. Chính vì vậy, đặt trong bối cảnh giao lưu văn hóa hiện nay, đổi mới tư duy về việc tiếp nhận, truyền bá văn học Pháp như thế nào để tạo nên sức lan tỏa sâu rộng, ngày càng mang lại hiệu ứng tích cực đối với công chúng Việt Nam, điều này cần được coi như một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển văn học, văn hóa nước nhà.

II. NỘI DUNG

Thành tựu văn học Pháp qua nhiều thế kỷ gắn liền với những tên tuổi quen thuộc với bạn đọc trên khắp thế giới.

Nếu như ở những thế kỷ XIX, tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Pháp như: Hugo, Baudelaire, Balzac, Maupassant, France, Zola, Rabelais, Ronsard, Montaigne, Mon - tesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau, Lamartine, France v.v. đã từng làm xao xuyến bao tâm hồn của nhiều thế hệ độc giả, thì đến thế kỷ XX văn học Pháp càng bí ẩn, quyến rũ, ấn tượng hơn với bạn đọc. Nhiều trào lưu, trường phái văn chương xuất hiện với các tác giả lừng danh: chủ nghĩa Dada và Tzara, B.Cendrarsa, phong trào Siêu thực và A.Breton, G.Apollinaire, thơ ca kháng chiến và L.Aragon, P.Eluard... chủ nghĩa Hiện sinh và J.P.Sartre, A.Camus, S.de Beauvoir, Kịch mới (kịch phi lý, phản kịch...) với E.Jonesco, S.Beckett... Tiểu thuyết Mới với N.Sarraute, A.Robbe - Grillet, M.Butor, C. Simon... phê bình Mới với R.Barthes, G.Genette, G.Poulet, Ch.Mauron, L.Goldman, JKristéva... các nhà thơ P.Valéry, P.Claudel, Sait John Perse, R. Char, J.Prévert, H.Michaux, F. Ponge, Y.Bonnefoy..., các nhà văn M.Proust, A.Gide, R.Martin du Gard, A. Malraux, F.Mauriac, A.de Saint-Exupéry, M.Yourcenar, M.Duras, G.Simenon..., các nhà viết kịch J. Giraudoux, J.Anouilh, H.de Montherland v.v., và điều này phần nào lý giải vì sao nước Pháp có số nhà văn đã vinh dự được nhận giải Nobel về văn học nhiều nhất thế giới. Đó là: Sully Prudhomme (1901), F.Mistral (1904), R.Rol - land(1915), A.France (1921), H.Bergson (1927), R.Mar-tin du Gard (1937), A.Gide (1947), F.Mauriac (1952), A.Camus (1957), Saint John Perse (1960), J.P.Sartre (1964, không nhận), S.Beckett (1969), C.Simon (1985)...

Nghiên cứu, giới thiệu một nền văn học kỳ vĩ như vậy là một việc không dễ dàng. Tuy vậy, Lộc Phương Thủy, với sự thấu hiểu và tình yêu sâu sắc với văn chương Pháp đã tìm ra con đường để dẫn dắt bạn đọc khám phá “mê cung” văn chương Pháp: bắt đầu từ những nội dung mà ở đó dấu ấn thành công của nó mãi mãi là hằng số văn hóa - là niềm tự hào của người Pháp nói riêng và nhân loại nói chung.

Trong Từ một góc nhìn về giao lưu văn học Việt - Pháp (Nxb. Khoa học xã hội, 1999) bạn đọc gặp lại ở đây những gương mặt rất quen thuộc, gần gũi qua các nghiên cứu: Nhà văn Julles Valles, Nhà thơ chiến sĩ Eugène Pottier, Léon Cladel - Nhà văn xuất sắc của Công xã Paris, Đề tài Công xã Paris trong vở kịch "Mùa xuân năm 71" của Arthur Adamov, Công xã Paris qua vở kịch "Phát súng ở Satory", Về tác phẩm thơ kịch trữ tình "Công xã Paris" của Henri Bassis, Trẻ thơ trong sáng tác của V.Hugo, Jean - Richard Bloch và tập bút ký "Tây Ban Nha!” Tây Ban Nha!, Về nhà văn Henri Barbusse, Cuộc đời sáng tạo của Romain Rolland, Quá trình sáng tác của nhà văn Roger Martin du Gard, Vấn đề đạo đức trong sáng tác của Hervé Bazin.

1. Nghiên cứu Văn học Công xã Paris

Tên tuổi và tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu cho văn học Công xã Paris thế kỷ XIX tuy không còn xa lạ với nhiều bạn đọc nhưng lại được Lộc Phương Thủy giới thiệu một cách cô đọng, ấn tượng từ những góc nhìn khác cùng nhiều phát hiện mới mà trước đây bạn đọc Việt Nam chưa có dịp tiếp xúc.

Từ “cây đại thụ” Victor Hugo đến các nhà văn, nhà thơ - chiến sĩ khác như Julles Valles, Eugène Pottier, Léon Cladel, Arthur Adamov, Henri Bassis, Jean - Richard Bloch, Henri Barbusse, Romain Rolland, Roger Martin du Gard, Hervé Bazin... tất cả đều trở lại trong các trang viết của Lộc Phương Thủy với một “thần thái” mới.

Chẳng hạn, Lộc Phương Thủy đã khẳng định: “Victor Hugo không phải là nhà văn chuyên viết về thiếu nhi, nhưng rõ ràng là không ai phủ nhận được tài năng của ông khi ông đề cập đến mảng đề tài này. Nhớ tới Hugo, biết ơn nhà văn vĩ đại đã từng để lại bao tác phẩm kiệt xuất cho nhân loại, chúng ta không thể không nhắc tới những gương mặt trẻ thơ trong sáng tác của ông” [1, tr.94]. Phân tích những bài thơ viết cho trẻ em của Hugo trong tập Nghệ thuật làm ông và làm sáng rõ những đặc điểm nhân vật trẻ em trong văn xuôi của ông, (đặc biệt nhân vật Gavroche trong bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ - chú bé được coi là vị thần hộ mệnh cho những người nghèo khổ), Lộc Phương Thủy nhận thấy: “So với các nhà văn Pháp cùng thời thì chỉ có Hugo để khá nhiều tâm trí cho sáng tác về trẻ em và viết hay hơn cả. Mảng đề tài tưởng như quá nhỏ bé và khiêm tốn so với sự nghiệp đồ sộ của Hugo, nhưng nó vẫn có vai trò vị trí nhất định của nó [1, tr.107]. Những luận giải của Lộc Phương Thủy cho chúng ta có dịp hiểu V. Hugo sâu sắc và đầy đủ hơn. Nhiều hình tượng trẻ em sinh động trong sáng tác của V. Hugo đã để lại cho những người làm văn học thiếu nhi hôm nay cả một kho kinh nghiệm vô giá, Lộc Phương Thủy khẳng định: “Trước hết, đó là lòng yêu thương, lòng nhân đạo cao cả của một người cầm bút và sau đó là óc quan sát tinh tế, là sự học hỏi không ngừng ở đối tượng (trẻ em các lứa tuổi), là sự hiểu biết sâu sắc tâm sinh lý, sở thích của chúng kết hợp với quá trình hồi tưởng và sống lại với chính tuổi thơ của mình” [1, tr.108].

Bên cạnh đó, phân tích những tác phẩm xuất sắc Địa ngục, Lửa của H. Barbusse, Lộc Phương Thủy đã giúp bạn đọc nhận thức rõ lòng căm ghét, thái độ phản đối chiến tranh toát lên từ tác phẩm, dẫn dắt bạn đọc đến những suy nghĩ tích cực về nghệ thuật, cuộc sống, chiến tranh và con người...

Tác giả Hervé Bazin - người kế tiếp xuất sắc truyền thống của chủ nghĩa hiện thực phê phán Pháp thế kỷ XIX - có số lượng tác phẩm đồ sộ, nhưng qua bài viết Vấn đề đạo đức trong sáng tác của Hervé Bazin, Lộc Phương Thuỷ đã chỉ ra H.Bazin là một người cầm bút mang tinh thần “xây” tích cực hơn chống, một nhà văn đầy lòng nhân ái có thể làm đối trọng với nhiều nhà văn hiện thực phê phán cùng thời.

Trong sự nhìn nhận của Lộc Phương Thủy: “Cladel cũng như các nhà văn khác của Công xã Paris, đã cố gắng phấn đấu cho một nền văn học hiện thực mới, viết về nhân dân và đấu tranh vì nhân dân. Ông đã dùng sáng tác của mình như một vũ khí đắc lực trong cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị. Sự nghiệp sáng tác của ông là một mắt xích quan trọng trong lịch sử văn học tiên tiến ở Pháp cuối thế kỷ XIX nói chung và trong quá trình phát triển của văn học Công xã Paris nói riêng”[1, tr.43].

Có thể nói, những nghiên cứu Văn học Công xã Paris của Lộc Phương Thủy đọng lại cho bạn đọc Việt Nam ấn tượng sâu đậm về một trào lưu văn học ra đời trong bão táp cách mạng năm 1871, nhiều nghệ sĩ tham gia vào dòng thác cách mạng này tuy tài năng, thiên hướng chính trị khác nhau, nhưng giống nhau ở hành động: trung thành, nhiệt huyết với nhân dân, tích cực bảo vệ Công xã Paris. Họ “tuy không để lại di sản văn học nghệ thuật đồ sộ, nhưng chiếm một vị trí quan trọng trong văn học Pháp và văn học thế giới” [1, tr.34].

2. Nghiên cứu tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX

Sau văn học Công xã Paris, mảng nghiên cứu thứ hai Lộc Phương Thủy quan tâm giới thiệu với bạn đọc Việt Nam là tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX.

Trong André Gide - Đời văn và tác phẩm (Nxb. Khoa học xã hội, 2002), Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX - Truyền thống và cách tân (Nxb.Văn học, 2005), Quan niệm văn chương Pháp (Nxb.Văn học, 2005) chúng ta có thể thấy tác giả tập trung tái hiện phần nào bức tranh sống động của tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX.

Trong những công trình này, nội dung cơ bản là giới thiệu một số gương mặt tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX, đó là các nhà tiểu thuyết dường như vẫn còn có mối dây liên hệ với tiểu thuyết hiện thực truyền thống như R.Rolland (1866 - 1944), M.du Gard (1881 - 1958), Henri Barbusse (1873 - 1935), H. Bazin (1911 - 1996), nhà "hiện thực kiểu mới" Le Clézio (1940), đến các nhà tiểu thuyết Hiện sinh như Jean - Paul Sartre (1905 - 1980), Anbert Camu (1913 - 1960), và các nhà Tiểu thuyết Mới như N.Sarraute, A.Robbe - Grillet, M.Butor, CL.Simon mỗi người đều thể hiện trong sáng tác của mình những trăn trở tìm tòi, hướng tới những cách tân đổi mới; đặc biệt qua việc giới thiệu một cách cụ thể, hệ thống cuộc đời - sự nghiệp, tác phẩm tiêu biểu nhà văn André Gide cả phương diện sáng tác và lý luận, độc giả có dịp làm quen với sự nghiệp đa dạng của một nhà văn luôn luôn khát khao say mê tìm hiểu và khám phá, luôn phát hiện và hướng tới những chân trời mới, một đại diện xuất sắc của tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX.

Nhìn toàn cảnh về thể loại tiểu thuyết, Lộc Phương Thủy khẳng định rằng tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX là một lĩnh vực sáng tạo rộng lớn, hơn thế nữa, mặc cho các lời kêu ca tiểu thuyết đang “ngắc ngoải” hay đã “chết”, nó vẫn là thể loại thành công trong văn học Pháp thế kỷ XX - một thế kỷ đầy biến động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn học. “Suốt chiều dài trăm năm của thế kỷ, các nhà tiểu thuyết Pháp đã thể hiện sự nỗ lực thường xuyên của mình, tìm đến những lối đi mới, thích hợp với thực tiễn xã hội đã có những thay đổi với tốc độ chóng mặt”[2, tr.7].

Đáng chú ý là khái niệm Tiểu thuyết dòng sông (roman-fleuve) được Lộc Phương Thủy giới thiệu kỹ lưỡng. Loại tiểu thuyết này xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ XX đã góp phần vào sự đa dạng và phong phú của tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX. Theo Lộc Phương Thủy, một số nhà nghiên cứu người Pháp cho rằng: “Tiểu thuyết dòng sông xuất hiện từ thời Trung cổ và tiếp tục tồn tại qua nhiều thế kỷ trong văn chương Pháp. Hiểu một cách đơn giản nhất, tiểu thuyết dòng sông được thể hiện qua độ dài nhiều tập của nó, cho phép chứa đựng những nội dung có tính chất hoành tráng, trải dài, bao quát cuộc đời của một con người, một gia đình, một nhóm người với các biến cố lịch sử xã hội rộng lớn. Độ dài như dòng sông của tiểu thuyết sẽ cuốn theo nó nhiều sự kiện, nhiều câu chuyện, với nhiều thăng trầm, biến đổi”[2, tr.11]. Tiểu thuyết dòng sông trong văn học Pháp ở thế kỷ XX một mặt kế thừa các thành tựu của tiểu thuyết nhiều tập ở các thế kỷ trước, đặc biệt là tiểu thuyết thế kỷ XIX với các tác giả Balzac và Tấn trò đời, Hugo và Những người khốn khổ, Zola và Gia đình Rougon - Marquart; Mặt khác, “nó thể hiện hơi thở, nhịp sống của những năm đầu thế kỷ XX với các biến chuyển lớn mạnh trong chính trị, kinh tế, kỹ thuật và văn hóa chỉ có vào thời gian này, tạo nên điểm đặc thù của tiểu thuyết nói riêng, văn học Pháp nói chung ở nửa đầu thế kỷ XX” [2, tr.11].

Thông tin về những bộ tiểu thuyết dòng sông tiêu biểu (có lẽ lần đầu tiên được Lộc Phương Thủy giới thiệu cụ thể ở Việt Nam) mang lại cho bạn đọc nhiều bất ngờ thú vị và sự ngưỡng mộ tài năng, cảm phục kết quả của quá trình làm việc kiên trì và hăng say sáng tạo của các nhà văn Pháp. Đó là M.du Gard với bộ Gia đình Thibault gồm 8 tập (1922 - 1940), R.Roland với bộ Jean-Christophe gồm 10 tập (1904 - 1912), J.Romains với bộ Những người thiện chí gồm 27 tập (1932 - 1947), G.Duhamel với bộ Gia đình Pasquier gồm 10 tập (1933 - 1945).

Trong số các tác gia của loại tiểu thuyết dòng sông, R.Rolland và M.du Gard đã vinh dự nhận giải Nobel Văn học bởi những cống hiến trong sự nghiệp sáng tạo của mình. Có thể nhận thấy rõ sự trân trọng đặc biệt của Lộc Phương Thủy dành cho những nhà văn Pháp kiệt xuất bởi những sáng tác của họ đều “ghi dấu ấn quan trọng có tính chất mở đầu thế kỷ XX đầy biến động”[2, tr.17].

Luận giải về vấn đề xây dựng nhân vật trong các tác phẩm của R.Rolland, Lộc Phương Thủy phát hiện nét đặc sắc: “Một trong những đặc điểm rõ nét trong sáng tác của R.Rolland là sự hướng tới những tư tưởng cao cả, những nhân vật nổi tiếng. Cuộc đời hoạt động của họ như những ngọn hải đăng soi sáng cho loài người đang khát khao Chân, Thiện, Mĩ”[2, tr.14].

Độc giả Việt Nam cũng nhận thấy tài năng và sự tinh tế của nhà văn Pháp trong kiến tạo nghệ thuật tiểu thuyết: “Tiểu thuyết Tâm hồn đắm say” (1922) cũng là một tác phẩm thuộc loại tiểu thuyết - dòng sông. Nữ nhân vật chính của tác phẩm Annette Rivière được khắc họa rõ nét với tính cách cương nghị, dám chọn cho mình một cuộc đời độc lập, chống lại những thành kiến đầy ác ý. Ở đây chúng ta thấy lặp lại mô - típ dòng sông quen thuộc trong sáng tác của Rolland: nhân vật chính có họ Rivière (dòng sông). Còn trong tác phẩm, Rolland viết: “dòng sông vẫn chảy về biển cả... Không có gì ngăn cản được... Cuộc sống vẫn tiến về phía trước! Thậm chí cả trong cảnh chết chóc, sóng nước vẫn nâng đỡ chúng ta! Thậm chí trong cảnh chết chóc chúng ta vẫn đi lên phía trước” [2, tr.15].

Trong Lời tựa của lần xuất bản thứ nhất tác phẩm Tâm hồn đắm say vào năm 1922, Rolland đã bộc lộ quan niệm sáng tác của mình: “Khi tôi viết một cuốn tiểu thuyết, tôi lựa chọn một nhân vật mà tôi cảm thấy hợp; (hay nói đúng hơn, chính là nhân vật đã chọn tôi). Một khi nhân vật đã được lựa chọn, tôi để cho nhân vật được tự do, tôi tránh không can thiệp (...). Vậy nên, khi tôi lựa chọn Jean - Christophe, hay Colas, Annette Rivière, tôi không phải là thư ký ghi chép những suy nghĩ của họ nữa. Tôi lắng nghe họ, tôi nhìn họ hành động và tôi nhìn bằng đôi mắt của họ...”. Lộc Phương Thủy đã giúp bạn đọc nhận thấy “R.Rolland đã cố gắng vượt lên cái quyền lực gần như tuyệt đối của kiểu tác giả - toàn năng của tiểu thuyết truyền thống và tuân theo tính khách quan của quá trình sáng tạo”[2, tr.15].

Sau R.Rolland là R.M.du Gard - một trong những nhà văn xuất sắc của văn học hiện đại Pháp. Sáng tác của ông kế tục xứng đáng những truyền thống của văn học Pháp thế kỷ trước, đồng thời có những cách tân trong kỹ thuật tiểu thuyết, tạo nên những đổi mới trong văn học Pháp đầu thế kỷ XX. Theo R.M.du Gard: “người viết tiểu thuyết cần phải lui về phía sau, nhường chỗ cho nhân vật của mình; anh ta cần phải miêu tả những nhân vật ấy một cách thật sinh động để họ hiện lên trước mặt người đọc rõ ràng như những con người thực mà khán giả nhìn thấy và nghe thấy trên sân khấu”[2, tr.23].

Giới thiệu, kiến giải những sáng tạo của R.M.du Gard đối với thể loại tiểu thuyết qua tác phẩm Jean Barois (1913) và đặc biệt là tám tập của bộ tiểu thuyết Gia đình Thibault (được đánh giá là “tuyệt đỉnh của tiểu thuyết hậu Balzac”) trên nhiều phương diện: xây dựng nhân vật, đối thoại, chỉ dẫn kỹ thuật, lối trần thuật “kể gián tiếp”... Lộc Phương Thủy khẳng định với những nỗ lực sáng tạo, cách tân tiểu thuyết của mình nhà văn R.M.du Gard đã: “có dịp thể hiện con người mình, bản lĩnh sáng tác cũng như quan niệm nghệ thuật của mình” [2, tr.25].

Bàn về truyền thống và cách tân tiểu thuyết Pháp, Lộc Phương Thủy đã dành riêng cho Andre Gide (1869 - 1951) - nhà văn có vị trí quan trọng trên văn đàn nước Pháp thế kỷ XX với nhiều sự tôn vinh “bậc thầy của tư tưởng”, “nhân vật hàng đầu” - chuyên luận Andre Gide đời văn và tác phẩm (2002), bên cạnh đó trong Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX - truyền thống và hiện đại (2005) tác giả cũng dành toàn bộ phần hai của công trình cho mục Truyền thống và cách tân qua sáng tác của Andre Gide.

Đây là những nghiên cứu công phu, với nhiều điểm nhìn về sự nghiệp đa dạng, phong phú của A.Gide. Từ kiến giải về điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế, những biến chuyển và thành công trong khoa học kỹ thuật của thời đại mà nhà văn được “đắm mình trong không khí chung của một giai đoạn yêu cầu phải đổi mới tiểu thuyết”[2, tr.50], đến luận giải chuyển biến tư duy nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn qua những tác phẩm tiêu biểu, Lộc Phương Thủy cho chúng ta thấy về mặt phong cách Gide đã khắc phục lối viết phức tạp, cầu kỳ, đến với một ngôn ngữ trong sáng, giản dị rõ ràng.

Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Bọn làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết.

Lộc Phương Thủy khẳng định A. Gide luôn quan tâm đến tính khách quan của tác giả trong quá trình sáng tác, việc làm đa dạng các điểm nhìn trong tiểu thuyết, mô hình kiến tạo “tiểu thuyết trong tiểu thuyết” đã giúp độc giả nhận ra sự phong phú và phức tạp của đời sống được thể hiện qua tác phẩm. Chính điều đó đã giúp ông tránh được đường mòn của tiểu thuyết truyền thống thường có một điểm nhìn. A.Gide đã tạo ra sự cách tân hết sức quan trọng về kỹ thuật, mà “quan tâm đến kỹ thuật sẽ là vấn đề cốt tử trong tiểu thuyết thế kỷ XX, vì vậy, tiểu thuyết của ông đã trở thành một cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX”[2, tr.93].

Qua phần giới thiệu của Lộc Phương Thủy về A.Gide, chúng ta có thể cảm nhận từ nhà văn mang phong cách độc đáo này của văn học Pháp một tinh thần đổi mới triệt để, luôn đấu tranh với chính mình để đi đến tận cùng chân ái và chân lý, luôn khát khao say mê khám phá và sáng tạo, mà trước hết là khám phá, phát hiện chính con người thực của mình, vì sự thực mà chẳng tiếc đến thân mình, để từ đó mới có thể thực hiện những mục tiêu lý tưởng, cống hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật.

Qua việc nghiên cứu sự nghiệp của nhà văn này, Lộc Phương Thủy giúp bạn đọc có thể thức nhận nhiều điều liên quan đến những chuẩn mực đánh giá văn chương, đánh giá người nghệ sĩ, những vấn đề đã, đang và sẽ cần được nhìn nhận, đánh giá lại, liên quan không chỉ đến văn học Pháp mà còn cả đến văn học Việt Nam hiện đại.

Sau Tiểu thuyết dòng sông, vấn đề Tiểu thuyết Hiện sinhTiểu thuyết Mới của văn học Pháp cũng được Lộc Phương Thủy luận giải và bày tỏ rõ quan điểm, đánh giá của bà về thành tựu của những loại tiểu thuyết này.

Từ một số những nội dung cơ bản của triết học Hiện sinh như: Quan tâm đến vấn đề thân phận con người, Khẳng định tồn tại có trước bản chất... Lộc Phương Thủy chỉ rõ Quan tâm đến vấn đề thân phận con người các nhà Hiện sinh có cái nhìn tiêu cực về con người. “Họ cho rằng nỗi đau khổ là tiền kiếp của con người. Lỗi lầm căn bản của con người, nằm ngay trong sự giới hạn và yếu hèn của chính cuộc đời. Con người luôn muốn hướng về hoàn thiện, toàn mỹ, về những cõi vô cùng, nhưng lại thấy mình đầy hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, con người luôn bị các mâu thuẫn ấy giày vò và bị mắc kẹt ở đó. Mặt khác, con người sống ở cõi đời như những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ bị lưu đày. Con người chỉ biết tồn tại ở trần gian, không biết mình từ đâu tới và mình sẽ đi về đâu” [2, tr.57]. Khẳng định tồn tại có trước bản chất - đây là một quan điểm quan trọng, từ đó liên quan trực tiếp đến tên gọi của triết học Hiện sinh. Các nhà Hiện sinh cho rằng sự tồn tại của con người có trước bản chất, trong một hoàn cảnh, con người có thể chọn một trong nhiều giả thiết. “Sự lựa chọn sẽ tạo ra con người, tức bản chất của anh ta vào hoàn cảnh đó.

Con người sẽ phải lựa chọn nhiều lần trong cuộc đời, phải dấn thân vào nhiều cảnh ngộ, nhiều tình huống, vì vậy, trong thực tế, tuy anh ta tồn tại đấy, nhưng bản chất của anh ta chưa thể xác định một cách chắc chắn được” [2, tr.58]; Mặt tích cực của triết học Hiện sinh cũng được khẳng định, ngay cả tâm trạng kinh hoàng, lo âu của con người cũng không hẳn là tiêu cực, bởi những điều đó gây ra sự bận rộn, khiến mọi người phải cố gắng. Trạng thái “bận rộn” đó là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người. Như vậy, qua tiếp nhận của Lộc Phương Thủy triết học Hiện sinh là “triết học hành động, nhấn mạnh đến sự hoạt động tích cực của con người. Nó không coi sự tồn tại của con người là cái gì đó bất biến, đã được xác định, đã bị đóng khung. Con người không đứng yên, anh ta phải liên tục lựa chọn và phải chịu trách nhiệm về bản thân mình”[2, tr.59].

Tiếp đó, trên cơ sở nội dung của triết học Hiện sinh, tập trung kiến giải một số tiểu thuyết Hiện sinh tiêu biểu như Buồn nôn (1938 của J.-P. Sartre); Người xa lạ (1942), Dịch hạch (1947) của A.Camus, Lộc Phương Thủy đã có nhiều đánh giá xác đáng: “Với tác phẩm Buồn nôn J.-P. Sartre không chỉ có những đóng góp quan trọng đối với tiểu thuyết Hiện sinh nói riêng. Ông đã vượt qua lối kể chuyện truyền thống vốn dựa trên cơ sở người kể chuyện biết hết mọi việc. Ông chọn cách kể chuyện qua cái nhìn chủ quan của nhân vật để người đọc có dịp hòa đồng trong câu chuyện. Với việc dùng ngôi thứ nhất số ít "tôi" và động từ hiện tại trong tác phẩm Buồn nôn, J-P. Sartre đã báo trước một khuynh hướng mới trong tiểu thuyết Pháp hiện đại với những tìm tòi, đổi mới về kỹ thuật tiểu thuyết”[2, tr.66].

Hoặc Người xa lạ - tiểu thuyết thể hiện rõ rệt nhất các sắc thái của chủ nghĩa Hiện sinh theo kiểu Camus, tác phẩm “vẫn giữ những đặc điểm của tiểu thuyết truyền thống như truyện kể theo đơn tuyến, có nhân vật và cốt truyện. Nhưng, đồng thời tác phẩm chứa trong mình nó những kỹ thuật tiểu thuyết hiện đại: phần hai của tác phẩm với không gian chủ yếu là nhà tù, một không gian hẹp, thích hợp cho độc thoại nội tâm xuất hiện. Cấu trúc không đơn giản của cốt truyện đã tạo nên tính “đa âm” cho tác phẩm và khiến nó được xếp vào danh sách những cuốn sách quan trọng của thế kỷ XX” [2, tr.74].

Với Tiểu thuyết Mới, đọc nghiên cứu của Lộc Phương Thủy bạn đọc có thể tìm được lời giải đáp thấu đáo cho những vấn đề như: Quan niệm về Tiểu thuyết Mới, thành tựu và giới hạn của loại Tiểu thuyết Mới.

Tiểu thuyết Mới là một cái tên quen gọi trong giới văn chương Pháp thế kỷ XX, cũng như ở nước ngoài. Nhưng đó không phải tên gọi một trường phái, trào lưu, có chỉ đạo, có thủ lĩnh, có tạp chí riêng và tuyên ngôn riêng của mình như một số trường phái ở thế kỷ XX. Lộc Phương Thủy đồng thuận ý kiến cho rằng Tiểu thuyết Mới chỉ là bước tiếp theo trong sự vận động không ngừng của thể loại tiểu thuyết Pháp, tác giả quan tâm ý kiến của Alain Robbe - Grillet (1922 - 2008) - “lãnh tụ của trào lưu Tiểu thuyết Mới”, “giáo hoàng Tiểu thuyết Mới” khi ông khẳng định sự đổi mới của tiểu thuyết đã có từ thời Balzac và thể loại tiểu thuyết trong thực tế đã phát triển liên tục với những nhà văn bậc thầy xuất sắc như: Flaubert, Dostoievsky, Proust, Kafka, Joyce, Faulkner,... “Với những cách tân của mình (có tính chất “đảo lộn”, khi không chấp nhận kiểu nhân vật truyền thống, các tính cách, trật tự niên biểu, các tình tiết có tính xã hội học trong tiểu thuyết), Tiểu thuyết Mới đã giúp cho công chúng có ý thức về sự vận động không ngừng của thể loại (và đó cũng là ý nghĩa tích cực của hành động “kiếm tìm”). Đó chính là điều quan trọng nhất, đáng để chúng ta lưu tâm”[2, tr.83].

Qua kiến giải của Lộc Phương Thủy, chúng ta thấy xét về tổng thể, Tiểu thuyết Mới là một cuộc kiếm tìm, là sự từ chối những thói quen dễ dãi, những đường mòn và sự trì trệ. Tiểu thuyết Mới thể hiện khuynh hướng chung của tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX: không ngừng vận động, không ngừng đổi mới. “Nó đã đạt được một số thành tựu như tìm đến những phương tiện mới trong miêu tả, mời gọi người đọc đến một hành động đọc tích cực hơn trước...”[2, tr.93].

Tuy nhiên, cùng với thành tựu, những giới hạn của Tiểu thuyết Mới cũng được xem xét trên tinh thần khoa học, khách quan. Lộc Phương Thủy nhận thấy: “Trong khi mải mê tìm kiếm những cách tân, đổi mới, Tiểu thuyết Mới chưa hẳn đã thành công một cách triệt để. Các nhà tiểu thuyết mới hô hào “tiêu diệt” nhân vật và phá vỡ cốt truyện, nhưng trên thực tế không dễ gì tiêu diệt được nhân vật. Có thể có thay đổi một số kỹ thuật xây dựng nhân vật, nhưng về cơ bản nhân vật vẫn không thể bị xóa bỏ. Tiểu thuyết Mới trao quyền tự do cho người đọc, nhưng thực ra nhiều tác phẩm lại trở thành văn bản khó tiếp cận, dẫn đến việc người đọc ngại đọc Tiểu thuyết Mới. Ngay trong giới nhà văn Pháp, kể cả những người chủ trương đổi mới, cách tân tiểu thuyết nói riêng, văn học nói chung, cũng không tán thành với những "phát minh" nhiều khi khá là cực đoan của Tiểu thuyết Mới” [2, tr.94].

Những nghiên cứu của Lộc Phương Thủy cho chúng ta thấy trên hành trình sáng tạo, những nhà tiểu thuyết hiện đại Pháp luôn không hài lòng với những chuẩn mực sáng tác đã có, họ luôn khát vọng kiếm tìm, đổi mới, hướng tới những chân trời mới. Họ thường không tuân theo một hiện thực duy nhất, một cách thể hiện duy nhất. Họ không muốn trở thành “thư ký trung thành của thời đại”, hay là nhà ghi chép lịch sử, nhà xã hội học. Họ cố gắng tìm cách thoát khỏi lối viết mòn cũ, tránh bị “trùm” dưới bóng khổng lồ của các đại văn hào Balzac, Hugo,... của thế kỷ trước. Họ tham khảo, học hỏi kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn nước ngoài, đồng thời thể nghiệm và áp dụng những thành tựu xuất sắc của các ngành nghiên cứu khoa học xã hội để có những đổi mới, cách tân trong sáng tác. Kết quả của các cuộc tìm tòi đã tạo nên sự đa dạng, phong phú của bức tranh toàn cảnh tiểu thuyết thế kỷ XX. Và phải chăng đây chính là những bài học kinh nghiệm quý báu để các nhà văn Việt Nam đã, đang và tiếp tục tham khảo, suy ngẫm, đổi mới tư duy trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển nền văn học nước nhà trong sự vận động của từng giai đoạn lịch sử?!

(còn nữa)

------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. L. P. Thủy, Từ một góc nhìn về giao lưu văn học Việt-Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, H.1999.

[2]. L. P. Thủy, (Chủ biên), Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX, Truyền thống và cách tân, Nxb. Văn học, H.2005

[3]. L. P. Thủy (Chủ biên), Phê bình văn học Pháp thế kỷ XX, Nxb Văn học, H.1995.

[4]. L. P.Thủy, (Chủ biên), Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ XX, Nxb. Văn học, H. 2005.

[5].T. T. Đạo, Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Nxb. Tri thức, H. 2008.

[6]. L. Nguyên (Chủ biên), Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài - Kinh nghiệm Việt Nam thời hiện đại, Nxb. Đại học SP Hà Nội, H. 2015.

[7]. L.Nguyên (Chủ biên), Việt Nam một thế kỷ tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài, Nxb.Đại học SP Hà Nội, 2020.

[8]. Nhiều tác giả, Nghiên cứu văn học Việt Nam những khả năng và thách thức, Nxb. Thế giới, H. 2009.

[9]. H.N. Phương, Trường phái hình thức Nga, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. HCM, 2007.

[10]. L.P.Thủy, Lịch sử văn học Pháp - Thế kỷ XIX, Nxb. Ngoại văn, H.1990.

[11]. L.P.Thủy, Lịch sử văn học Pháp - Thế kỷ XX, Nxb. Ngoại văn, H.1992.

[12]. L.P. Thủy, André Gide - Đời văn và tác phẩm, Nxb. Khoa học xã hội, 2002.

[13]. L.P.Thủy, (Chủ biên), Lý luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, 2 tập, Nxb. Giáo dục, H. 2007.

[14]. L.P. Thủy, N.P. Ngọc, P.N. Kiên, Xã hội học văn học, Nxb. ĐH Quốc gia, H. 2014.

[15]. H.Trinh, Ký hiệu nghĩa và phê bình văn học, Nxb.Văn học, H. 1979.

Cao Thị Hồng

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy