Thứ năm, ngày 19 tháng 09 năm 2024
09:01 (GMT +7)

Cây hương đá – một loại bia đá độc đáo ở Thái Nguyên

Thái Nguyên là tỉnh miền núi, là một trong những vùng đất cổ với nhiều ngôi chùa cổ gắn với đặc trưng vùng miền. Ở các huyện thuộc vùng núi có nhiều hang động, nhân dân nơi đây “nhân thấy động đẹp làm chùa”. Phổ biến ở huyện Đồng Hỷ như Hang Leo, Hang Chùa. Thành phố Thái Nguyên có Chùa Hang, Động Linh Sơn. Huyện Định Hóa có Chùa Hang, Hang Dơi. Huyện Đại Từ có động Núi Võ, Núi Văn, Hang Nung. Huyện Phú Lương có Hang Dơi, Hang Na Thỏi, Hang Thủng, Hang Thắm Chậc. Huyện Võ Nhai có Hang Phượng Hoàng, Hang Nghè Yên, Hang Ốc, Hang Nà Lạng…

Chùa Túc Duyên (Úc Kỳ, Phú Bình) có Cây hương đá (ảnh trái) lập năm 1714

Mặt khác, ở các làng quê tại huyện Phú Bình, thành phố Phổ Yên, thành phố Sông Công lại có đặc trưng “ngôi chùa cột đá”, trong đó Cây hương đá là một loại hình “bia đá” độc đáo mà chúng tôi đã sưu tầm được. Cho đến thời điểm hiện tại huyện Phú Bình tìm thấy 21 cây, còn lại như huyện Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, thành phố Phổ Yên mỗi địa bàn mới phát hiện 1 cây.

Cây hương đá là một thanh đá nguyên khối to nhỏ tùy nơi làm ra, chúng thường có ở các ngôi chùa làng. Tùy theo mức độ về cách thức yêu cầu, vị trí xã hội, tính chất chủ nhân… mà dựng “Thiên đài thạch trụ” hoặc “Thiên đài nhất trụ”. Cây hương đá được nghệ nhân đục đá tạo thành 4 cạnh gọi là tứ giác, có chỗ 6 cạnh gọi là lục giác. Chiều cao từ 1,2 - 1,5 m, các cạnh dao động từ 25 - 30 cm, có vát nhọn ở chân cây hương cắm xuống đất. Cạnh của Cây hương được bào nhẵn. Trên cạnh có cây hương để trơn, có cây khắc hoa văn trong đó thường gặp nhất là khắc hoa Cúc liên hoàn từ trên xuống. Ngoài ra, còn có những Cây hương đá khắc đề tài tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng), tứ quý (Đào, Mai, Cúc, Tùng hoặc Sen, Cúc, Đào, Mai). Cạnh cây hương được khoét sâu vào thành rãnh, thành các ô vuông được mài nhẵn để khắc chữ Hán Nôm. Trên đỉnh cây hương được tạc một bông sen (biểu tượng của nhà Phật). Bông sen được tỉa thành nhiều cánh, thường số cánh là số lẻ. Giữa bông sen đó đục rỗng để cắm hương.

Về ý nghĩa của Cây hương đá, nó như một cột kỳ đài, một cột trụ trời được trồng trước cửa chùa để nhân dân thắp hương cầu trời khấn Phật. “Kính thiên đài chúc”, “Thiên đài thạch trụ” là những tiêu đề thường thấy ở cây hương. Trong số 24 cây hương đá đã tìm được ở tỉnh Thái Nguyên đa phần có hình dáng đặc điểm có 4 cạnh. Một số cây có từ 5 - 6 cạnh (ở huyện Phú Bình có chùa Túc Duyên, xã Úc Kỳ; chùa An Châu, xã Nga My; chùa làng Thượng, xã Bảo Lý; chùa Úc Sơn, thị trấn Hương Sơn).

Bài ký khắc trên cây hương ghi lại việc xây dựng, tân tạo, công đức tu bổ di tích chùa chiền. Các bài ký ngắn hay dài tùy theo từng chùa. Có bài ký ghi hàng trăm gia đình, họ tên người công đức như Cây hương đá chùa Sam (Sam Linh tự tu tạo thiên đài cúng thạch ngũ giáp đẳng); Cây hương chùa Xuân La (Thiên đài thạch trụ phần hương hưng công); Cây hương chùa Phú Mỹ (Thiên đài thạch trụ Phượng Linh tự ký)... Có Cây hương đá lại chỉ ghi một dòng tộc công đức mua cây hương công đức vào chùa như chùa Hanh (xã Nhã Lộng), chùa Cầu Muối (xã Tân Thành), chùa Cao Báng (xã Tân Kim)… tất cả đều ở huyện Phú Bình.

Qua nghiên cứu, nội dung các bài ký khắc trên các cây hương đá có chung một đặc điểm là ghi công đức như văn bia. Cách thể hiện hành văn đều theo một thể lệ: Thời gian, địa điểm, sự kiện, nhân vật, lý do dựng cây hương. Cũng có bài ký có câu luận về đạo nhà Phật như giáo hóa chúng sinh bằng việc làm thiện, làm phúc, sùng đạo Phật, như: “Thiên khai lộ thượng tác phúc vi tiên đạo Phật lâm chung...” (Cây hương đá chùa Lảo, An Châu, xã Nga My; Cây hương chùa Quan Tràng, xã Thượng Đình, huyện Phú Bình).

Chùa Mai Sơn (Kha Sơn, Phú Bình) có cây hương (ảnh trái) lập năm 1701

Nội dung các bài ký đều có điểm chung là hướng chúng sinh làm việc thiện, lấy ngôi chùa làm nơi giáo hóa. Khi ghi họ tên người công đức có ghi cả chức vị, phẩm hàm từ các vị quan lại, chức sắc, giám sinh, sinh đồ, đỗ đạt đến các vị tăng, ni, phật tử đã quy y đạo Phật; thiện nam, tín nữ, các dòng họ, thậm chí ghi từ các vị tổ đến con, cháu, quê gốc, nơi sống hiện tại, công đức bao nhiêu. Nói chung, qua rất nhiều thông tin trong nội dung các bài ký trên Cây hương đá cho chúng ta hiểu thêm nhiều lĩnh vực về xã hội, con người.

Đặc biệt trong số cá nhân, tập thể gọi là “Hội chủ công đức, Hưng công hoặc tùy duyên công đức” có phần nhiều là phụ nữ - một đối tượng xuyên suốt trong hàng loạt những bài văn khắc, chứng tỏ đây là lực lượng lớn tham gia tích cực trong việc xây dựng, trùng tu, tôn tạo chùa làng thời phong kiến. Bài ký trên Cây hương đá khắc bằng chữ Hán Nôm, chữ viết chân phương mang phong cách thời đại có giá trị nghiên cứu về Văn bản học, Ngôn ngữ và Hán Nôm học.

Trong số 24 Cây hương đá chúng tôi tìm được đến thời điểm hiện tại có 21 cây thuộc thời nhà Lê, 2 cây thời nhà Nguyễn và một cây không rõ niên đại. Cây hương có niên đại sớm nhất được lập vào năm Chính Hòa thứ 23 (1702) thời Lê, niên hiệu này có 3 cây (1702 - 1705). Niên hiệu Vĩnh Thịnh có 6 cây (1707 - 1719), niên hiệu Bảo Thái có 6 cây (1722 - 1728), niên hiệu Vĩnh Khánh có 2 cây (1732), niên hiệu Vĩnh Hựu có 4 cây (1732 - 1738), niên hiệu Minh Mệnh thứ 21 có 1 cây, niên hiệu Tự Đức có 1 cây đều tập trung ở huyện Phú Bình. Qua sưu tầm tra cứu có một Cây hương đá chùa Cơ Phi (Long Sào tự) thuộc xã Vạn Phái, thành phố Phổ Yên, văn bản khắc trên cây hương cho biết là lập vào niên hiệu Chính Hòa Ất Hợi (1705) nhưng ở diềm cạnh của cây hương lại ghi khắc lại văn bản vào năm Thành Thái thứ 4 (1892) “Thành Thái tứ niên tam nguyệt trung lưu trung tu”.

Qua sưu tầm nghiên cứu cho thấy Cây hương đá được lập nở rộ nhất vào thời nhà Lê giai đoạn niên hiệu Chính Hòa và nó còn xuất hiện vào cả vào thời nhà Nguyễn, không phải như một số học giả cho rằng Cây hương đá chỉ xuất hiện vào thời Lê. Văn khắc trên cây hương đá là lời văn của các bậc túc nho. Qua khảo sát, nghiên cứu cho thấy số người tham gia soạn văn chủ yếu là tầng lớp trí thức. Họ là những người có học thức trong xã hội đã để lại những áng văn chương có giá trị ca ngợi cảnh đẹp quê hương, ca ngợi thời Lê - Trịnh thịnh trị, phát triển, nhờ quốc thịnh mà dân cường, nhân dân ấm no chăm lo xây dựng, tu bổ di tích đền, chùa. Đồng thời, cũng để ca ngợi đạo Phật được nhân dân mộ đạo sùng bái, chính là để vun đắp nền móng nước nhà được bền vững, tốt đẹp.

Nguyễn Đình Hưng

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy