Thứ tư, ngày 12 tháng 03 năm 2025
14:28 (GMT +7)

Người Việt Nam ở nước ngoài: Hướng về Tổ quốc (Kỳ 1- Một cộng đồng đông đảo và năng động)

Kỳ 1 – Một cộng đồng đông đảo và năng động

Hiện nay có khoảng 5,3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài (NVNƠNN). NVNƠNN ra đi trong nhiều thời điểm khác nhau, nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên đa số bà con luôn hướng về đất nước, theo dõi tình hình của đất nước, mong đất nước phát triển. Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác đối với NVNƠNN là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì vậy đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về công tác đối với NVNƠNN, đảm bảo nhất quán trong tư tưởng chỉ đạo và hành động thực tiễn.

Buổi biểu diễn nghệ thuật của Trung tâm nghệ thuật dân gian “Tiếng Tơ Đồng” ở Paris (Pháp). Ảnh: Quyên GAVOYE
Buổi biểu diễn nghệ thuật của Trung tâm nghệ thuật dân gian “Tiếng Tơ Đồng” ở Paris (Pháp). Ảnh: Quyên GAVOYE

Theo số liệu năm 2021 của Ban Tuyên giáo Trung ương thì cộng đồng NVNƠNN ở nước ngoài có trên 5,3 triệu người và phân bố không đồng đều tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, số người Việt ở Mỹ chiếm nhiều nhất và có thời kỳ chiếm trên dưới 50% tổng số NVNƠNN.

NVNƠNN bắt đầu có từ khi nào là một câu hỏi đến nay chưa thật sự có một lời giải đáp chính xác, tuy nhiên trong các sách sử đã từng ghi những người Việt Nam ra đi và sống ở nước ngoài.

Ngay từ đời vua Linh Đế nhà Đông Hán (Trung Quốc) đã có người Việt là Lý Cầm làm lính túc vệ trong cung. Cá biệt, ở triều Đường, đã từng có người Việt Nam là Khương Công Phụ, người Thanh Hoá đỗ cao và làm đến Tể tướng. Ở thế kỷ XIII, Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346), nhân được triều đình cử đi sứ nhà Nguyên đã kết thân với sứ thần của Cao Ly (Triều Tiên). Tương truyền, trên đường về nước, ông đã nhận lời mời của sứ thần Cao Ly ghé chơi Bình Nhưỡng (ngày nay), lấy vợ là cháu vị sứ thần Cao Ly và ở lại Cao Ly 5 năm trời, sinh hạ hai trai và một gái... Có một sự kiện được lịch sử ghi lại tường tận là chuyện thân vương Lý Long Tường của nhà Lý đã cùng những người thân tín vượt biển ra nước ngoài vào năm 1226 để tránh sự truy sát của Trần Thủ Độ. Sau đó, ông trôi dạt đến vùng đất ở Cao Ly (nay thuộc Hàn Quốc) và trở thành một thế lực và dòng họ lớn tại đây (1).

Ngày 6/11/1958, trong dịp viếng thăm miền Nam Việt Nam khi ấy, Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc là Lý Thừa Vãn đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt Nam (2). Năm 1994, ông Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ và là hậu duệ đời thứ 26 của Hoàng thúc Lý Long Tường, qua Việt Nam, tìm đến đền thờ Lý Bát Đế ở Đình Bảng (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) để bái yết tổ tiên. Ông sinh con trai năm 1997 và đặt tên con là Lý Việt Quốc. Hiện nay, ông Lý Xương Căn và cả gia đình đã định cư và nhập quốc tịch Việt Nam (3).

Theo sử cũ, từ thế kỷ 17 đã có người Việt Nam sang làm ăn tại Campuchia. Thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ 19 đã có những đợt người Việt sang lánh nạn và làm ăn tại Campuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, đã có một số người Việt đi du học, làm công chức tại Pháp hoặc bị động viên đi lính, đi phu tại một số thuộc địa của Pháp.

Đặc biệt, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, đã có rất nhiều người Việt đi mộ phu ở Tân Thế giới, thường gọi là đi “chân đăng” (hiện nay, chưa có giải đáp thấu đáo nào về tên gọi “chân đăng” đối với những người Việt đi làm phu thuở ấy). Trong tác phẩm Papilon - Người tù khổ sai, tác giả Henri Charrière đã mô tả rất kỹ trong thiên tiểu thuyết gần như là tự sự của mình, trong đó kể về những người Việt (Henri Charrière gọi nhầm là người Hoa) chân đăng ấy.

Nhớ về nguồn cội

Mặc dù ở xa đất nước hàng vạn dặm, song đồng bào vẫn luôn hướng về quê hương, đất nước. Năm 1945, khi nước nhà giành được độc lập thì đến năm 1947, chuyến tàu đầu tiên hồi hương người Việt từ Tân Đảo trở về quê hương tham gia kháng chiến, xây dựng đất nước. Tác giả Quang Lễ trong bài viết “Người Việt ở Tân đảo và hành trình xa xứ” (Báo Công an Nhân dân online ngày 14/2/2010) cho biết: Vào những năm 1940, “thông tin về cuộc cách mạng ở trong nước khiến tất cả người chân đăng ở Tân Đảo đều nức lòng chờ đợi. Như bao người Việt Nam đã phải sống quá lâu dưới xiềng xích nô lệ, họ đều khao khát độc lập cho dân tộc, cho đồng bào, cho người thân và chính cá nhân họ. Nhiều bài hát ủng hộ Chính phủ Việt Minh đã ra đời ở Tân Đảo, được chính những người chân đăng mù chữ sáng tác, thể hiện tinh thần yêu nước và tấm lòng luôn hướng về quê hương” (4).

Múa lân trong ngày Tết Việt Nam ở Vương quốc Bỉ. Ảnh: Quỳnh Iris de Prelle
Múa lân trong ngày Tết Việt Nam ở Vương quốc Bỉ. Ảnh: Quỳnh Iris de Prelle

Tác giả Quang Lễ cũng cho biết bà con ở đây đã sáng tác nhiều bài hát, trong đó có 2 bài được gọi là “quốc ca”, đó là bài hát năm 1944 và bài năm 1945 khi nghe tin Việt Nam giành được độc lập. Bài "quốc ca" đầu tiên năm 1944 có đoạn: "Đồng bào ơi mau mau tiến lên/ Cùng giải phóng ách nô lệ này/ Hãy phá tan xiềng xích trăm năm/ Thù thực dân anh em ta tím gan/ Thề giành tự do sống trong hòa bình/ Cụ Hồ Chí Minh trời kia đang ví/ Một lòng vì nhân dân đấu tranh giữ gìn sông núi/ Đạp chông gai đứng lên/ Vì nhân dân tiến lên/ Chống đế quốc, chống thực dân/ Vùng lên, vùng lên/ Những người Việt Nam anh hùng…". Bài “quốc ca” năm 1945 để chào mừng nước nhà độc lập: “Cờ quốc túy nước Việt Nam trông xem hùng vĩ/ Ngọn cờ đào năm cánh hoàng tinh/ Đông Dương gặp hội thanh bình/ Tôn thờ chủ nghĩa Việt Minh cộng hòa/ Chào cờ dân chủ quê ta/ Mau mau tỉnh dậy theo gương văn hóa nước nhà cho quen/ Đừng mê man trong đám đỏ đen/ Lãng quên hai chữ lợi quyền/ Đại Việt Nam đắc thế cộng hòa/ Chào cờ dân chủ quê ta…". Nay, con cháu của những người “chân đăng” có nhiều người có vị thế và tiềm lực kinh tế to lớn.

Ngoài ra, trong thời kỳ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, có thêm một số người ra đi lánh nạn, kiếm sống, theo chồng hồi hương hoặc đi tu nghiệp, du học ở nước ngoài. Trước năm 1975 số lượng NVNƠNN chỉ có khoảng 160.000 đến khoảng 200.000 người. Đa số họ không có tư tưởng định cư lâu dài ở nước ngoài mà chỉ xem đây là nơi dừng chân tạm thời để đợi điều kiện thuận lợi trở về Tổ quốc. Từ sau năm 1975, số lượng NVNƠNN tăng nhanh. Ngoài ra, những năm 80 của thế kỷ XX, những người đi lao động ở các nước Đông Âu và Liên Xô ở lại làm ăn cũng làm tăng số lượng NVNƠNN.

Có thể thấy, dù hoàn cảnh ra đi có thể khác nhau, dù sống ở bất cứ nơi đâu trên thế giới thì cộng đồng NVNƠNN vẫn luôn hướng về quê hương, đất nước, duy trì mối quan hệ gần gũi với quê hương đất nước, mong muốn đất nước phát triển và hội nhập quốc tế nhanh chóng.

Trình diễn áo dài nhân ngày Tết Nguyên Đán của chị em Hội Tôn vinh Văn hoá Việt (Cộng hòa Pháp). Ảnh: Hiệu Constant
Trình diễn áo dài nhân ngày Tết Nguyên Đán của chị em Hội Tôn vinh Văn hoá Việt (Cộng hòa Pháp). Ảnh: Hiệu Constant

Trong hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước”, nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình - người từng đảm nhiệm Trưởng phái đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại hòa đàm Paris đã viết những dòng đầy xúc động tri ân và đánh giá rất cao đóng góp của cộng đồng NVNƠNN đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.

Theo bà Nguyễn Thị Bình, khi đề xuất địa điểm cho hòa đàm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam thì địa điểm đàm phán là Paris đã dễ dàng nhận được sự đồng thuận từ các bên tham gia đàm phán. Trong quá trình diễn ra hội nghị, cộng đồng người Việt Nam ở Pháp đã có đóng góp to lớn giúp đỡ đoàn rất nhiều…

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc / Hồ Chí Minh) đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của cộng đồng NVNƠNN và đã tích cực tạo lập cơ sở, xây dựng tổ chức ở nước ngoài để phục vụ cho cách mạng trong nước. Năm 1919, tại Pháp, Nguyễn Tất Thành đã cùng với những người Việt Nam yêu nước tại Pháp thành “Nhóm người An Nam yêu nước”, tiền thân của phong trào Việt kiều yêu nước rộng khắp tại Pháp và Hội người Việt Nam tại Pháp sau này. Năm 1925, tại Quảng Châu, Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tiếp đó, các chi hội ở Thái Lan cũng được thành lập. Năm 1928, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp đến Thái Lan để vận động bà con kiều bào, trực tiếp lãnh đạo tổ chức và phong trào Việt kiều yêu nước tại đây.

(Còn nữa)

Hồng Phúc – Huy Văn

---------

(1) Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên: Giai thoại kẻ sĩ Việt Nam (phần viết về Mạc Đĩnh Chi); Nxb Văn hóa - Dân tộc, 1997, tr. 314, 318.

(2) Trung Nghĩa: “800 năm hoài cố hương”, Tuổi trẻ onile ngày 14/11/2005, https://tuoitre.vn/800-nam-hoai-co-huong-172417.htm

(3) Ngọc Tước: “Hậu duệ nhà Lý và câu chuyện 800 năm tìm về cố quốc”, Báo Công an Nhân dân online ngày 9/2/2007, https://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Hau-due-nha-Ly-va-cau-chuyen-800-nam-tim-ve-co-quoc-i38203/

(4) Quang Lễ: “Người Việt ở Tân đảo và hành trình xa xứ”, báo Công an Nhân dân online ngày 14-2-2010, https://cand.com.vn/Xa-hoi/Nguoi-Viet-o-Tan-dao-va-hanh-trinh-xa-xu-i156906/

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy