KỶ NIỆM 70 NĂM CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ (07/5/1954 - 07/5/2024)
Cách đây 70 năm, địa ngục lòng chảo Điện Biên Phủ - góc nhìn từ những cựu binh Pháp (Kỳ III)
(Tiếp theo kỳ trước)
Kỳ III – Nhật ký hành quân tháng 12 năm 1953
Ngày 3 tháng 12 năm 1953
21:00
Mở cuộc trinh sát theo hướng Tuần Giáo do Tourret chỉ huy với nhiệm vụ: tìm kiếm liên lạc với đám lính nổi dậy, đặc biệt là quân Mèo của bản Phatong, sau đó tiến hành trinh sát hướng ngã tư lớn tỉnh lộ 41, tại Tuần Giáo.
Quân Việt Minh thiết lập một căn cứ quan trọng ở đó để dự trữ trang bị và vật tư cần thiết cho các sư đoàn ra mặt trận hoặc di chuyển qua khu vực.
Tourret và đám lính đã thấy quân du kích cách thung lũng 30 km, sau hai ngày hành quân gian khổ, sau đó họ tiếp tục đi về phía bản Phatong và Poucha, 40 km về phía bắc mà không thêm bất cứ người Việt nào.
Ngày 4 tháng 12 năm 1953
10:45
Kết quả của buổi sáng: Trung đoàn lính dù ngoại quốc số 1 bị bao vây và tổn thất nặng nề (11 người chết, 3 người bị thương nặng và 26 người bị thương nhẹ trong đó có 17 người châu Âu và 2 sĩ quan).
Quân Việt lấy thi thể rút lui cùng vũ khí.
Trung đoàn 176 của sư đoàn 316, đơn vị cơ hữu đầu tiên đồng thời là đơn vị lớn đầu tiên đến Điện Biên Phủ.
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa quyết định việc chia lại ruộng đất và xóa bỏ chế độ phong kiến về sở hữu đất đai, trả đất cho nông dân. Quyết định này được đưa ra nhằm cho phép sản xuất lúa gạo nhiều hơn và cung cấp lương thực cho quân đội trong các trận chiến sắp tới.
Thông tin: Tướng Giáp dự kiến đến Thuận Châu.
12:00
Cogny thăm Điện Biên Phủ, quyết định thành lập trung tâm chiến đấu trên đồi 506 nhìn ra tỉnh lộ 41 cách bản Him Lam (Béatrice) 300m về phía Tây theo thỏa thuận với tướng Gilles và đại tá De Castries, những người này đánh giá điểm 781 và 1066 ở quá xa và tách biệt. Việc lựa chọn 506 vì nó cho phép tạo đường dây liên lạc tốt hơn với vị trí chính.
Kinh nghiệm của Nà Sản cho thấy Việt Minh rất xuất sắc trong việc xâm nhập vào các khoảng trống giữa các điểm. Vì vậy cần phải tập trung các trung tâm chiến sự gần nhau hơn.
Tướng Gilles cho quy hoạch 4 trung tâm chiến sự bao gồm Anne – Marie (đồi Bản Kéo), Claudine (Cứ điểm 310), Dominique (một cụm cao điểm phía Đông) và Éliane (đồi A1). Các chữ cái còn thiếu tương ứng với các trung tâm dự kiến, Béatrice (Him Lam), Huguette (cứ điểm 206) và Gabrielle (đồi Độc Lập).
Khoảng cách từ các trung tâm tới doanh trại cố thủ có thể giải thích phần nào sự thất thủ của họ.
Ngày 6 tháng 12 năm 1953
Toàn bộ Sư đoàn 316 tiến về Điện Biên Phủ ngày 6 tháng 12.
Lệnh Tổng động viên của Việt Minh cho chiến dịch Mùa Đông do đài Tiếng Nói Việt Nam phát sóng.
Ước tính có khoảng 35.000 dân công lúc bắt đầu cuộc chiến, họ đã lên tới khoảng từ 50.000 đến 75.000 theo ước tính từ các cơ quan tình báo, lấy tham chiếu số lượng khẩu phần được phân phát.
Để giải quyết vấn đề vận chuyển hàng hóa trên các tuyến tỉnh lộ 13 và 41, tuyến đường được chia thành 8 đoạn với từ 30 đến 40 xe tải vận chuyển ở mỗi đoạn và vô số xe thồ được bố trí tại ranh giới mỗi đoạn để dỡ và xếp hàng cho xe tải. Ngoài ra họ còn sử dụng sức người để vận chuyển trong trường hợp đường bị cắt hoàn toàn từ hai đến ba ngày. Đây là nơi xe đạp được sử dụng.
Gạo Trung Quốc được vận chuyển tới Lai Châu rồi chuyển sang bằng đường thủy.
Thông tin: Chương trình nghị sự của Tướng Giáp hướng tới quân mặt trận C (Tây Bắc) đề cập đến trong đợt thực hiện nhiệm vụ Mùa Đông về phía Tây Bắc nhằm tiêu diệt quân Pháp.
Ngày 7 tháng 12 năm 1953
Đại tá De Castries, với tư cách là Phó Tư lệnh chiến trường, Trung tá Trancart giữ quyền chỉ huy Zono với tư cách là chỉ huy pháo binh và Phó Đại tá tác chiến Piroth.
Tham mưu trưởng liên quân Gono và Zono: Trung tá Guth.
Phó Tham mưu trưởng: Tiểu đoàn trưởng Leost.
Tổng số nhân sự: 11 tướng tá.
Đại tá De Castries giải vây cho tướng Gilles và nắm quyền chỉ huy Gono.
Tên gọi “Gono” nghe giống tên của một căn bệnh kinh tởm, như một số nhận xét của các tướng tá.
Ngày 8 tháng 12 năm 1953
Dưới đây là trích đoạn nhật ký của một phi hành đoàn.
***
Kết thúc của Lai Châu.
Ngày 5 tháng 12, Cơ trưởng Dompnier, phi công kiêm Cơ trưởng cùng tôi, Chuẩn úy Boyer, kỹ sư bay, rời Sài Gòn trên chiếc C-47 số 562 Fox Victor của nhóm “Anjou”. Ngày hôm sau chúng tôi đến Điện Biên Phủ, chặng dừng chân cuối cùng trước Lai Châu, đồn mà chúng tôi phải tham gia di tản. Chúng tôi thực hiện hai chuyến bay, một hướng về Điện Biên Phủ, một hướng về Hà Nội.
Ngày hôm sau chúng tôi trở lại Điện Biên Phủ với chương trình như ngày hôm trước: ba chuyến bay từ Điện Biên Phủ về Lai Châu, chặng cuối ở Hà Nội.
Tương tự vào ngày 8 tháng 12, nhưng đây chính là thời điểm đặc biệt khó khăn. Tất cả các thiết bị có thể vận chuyển dễ dàng đều được gửi đến Điện Biên Phủ hoặc Hà Nội, cũng như quân đội. Nhưng người Việt ở Lai Châu cũng muốn trốn thoát và lao về phía máy bay của chúng tôi, chiếc cuối cùng rời đồn.
C-47 của chúng tôi không phải là xe buýt, một điều chắc chắn chúng tôi sẽ không thể chở tất cả mọi người. Vì vậy, tôi lấy một cây gậy và cố gắng sắp xếp trật tự ở chân cầu thang. Một người lính chạy đến, tôi không thể từ chối. Anh ta nói với tôi rằng anh ta vừa khởi động các cuộc tấn công phá hủy xung quanh đường băng, mọi thứ sẽ nổ tung trong vài phút nữa vậy nên tốt nhất là chúng tôi phải nhanh chóng rời đi. Để vô hiệu hóa đám đông, chúng tôi bắn thêm vài viên đạn vào những chiếc xe đậu xung quanh máy bay, sau đó đóng cửa máy bay, tôi lao vào buồng lái để nổ máy.
Trong trạng thái cảnh giác, sẵn sàng cất cánh, cả hai tay tôi vẫn cầm gậy, Cơ trưởng Dompnier nhìn tôi và chờ đợi. Động cơ thứ nhất khởi động. Nhanh lên, khởi động động cơ thứ hai... Nó không khởi động! Tôi thử lại... Vẫn thế. Viên phi công vẫn bình tĩnh chờ đợi nhưng mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt.
Tôi nghĩ nếu động cơ không nổ máy thì chúng ta sẽ phải bỏ thiết bị, mở ống xả nhiên liệu và châm lửa. Sau đó sẽ bỏ máy bay và chạy bộ.
Tôi cố gắng thêm lần nữa. Vài phút trôi qua. Pin đã sạc đầy. Tôi sẽ thử lại... Boo... Boo... Boo... Ron... Vậy đó, động cơ đang bắt đầu.
Không có thời gian để lãng phí! Viên phi công nhìn tôi, gật đầu khẳng định và tăng tốc rất nhanh. Chiếc C-47 lăn bánh... Một dòng suối nhỏ chạy ngang qua đường băng và ngay lúc đó bánh xe rời khỏi mặt đất. Chỉ là vấn đề thời gian!
Máy bay bắt đầu cất cánh. Mọi người cần phải biết những con đường mòn Lai Châu cơ bản nằm ở lưng chừng núi, gần biên giới Trung Quốc. Chúng tôi hạ cánh một hướng, quay đầu và cất cánh theo hướng kia, không tính đến hướng gió, băng qua sông Sông Đà. Và hơn thế nữa, chúng tôi đang chở thêm một số lượng hành khách không đếm xuể...
Chúng tôi rời khỏi mặt đất, những tiếng nổ vang lên bên dưới trong khi những đám mây đen lớn hình thành xung quanh máy bay. Người Việt ở cách đó không xa… “tiếp tuyến”!
Sau đó, Cơ trưởng nói trong micro: – “Đây là Fox Victor. Lai Châu. Hoàn thành nhiệm vụ”.
Sau khi cúp micro, Cơ trưởng đổ mồ hôi kiệt sức vì lo lắng, anh ta chuyển điều khiển cho tôi.
Ngày 16 tháng 12 năm 1953
Kết quả chiến dịch Pollux: Khi lực lượng Pollux rời Lai Châu vào ngày 9 tháng 12, họ gồm 2.101 lính trong đó có 3 Trung úy và 34 hạ sĩ quan người Pháp.
Khi đơn vị cuối cùng đến Điện Biên Phủ vào ngày 22 tháng 12, họ còn lại 10 người Pháp trong đó có Trung úy Uplat và 175 lính.
Gần 2.000 người mất tích: hàng trăm dân thường, 2 sĩ quan và 25 hạ sĩ quan người Pháp. Tổng cộng có 282 người, trong đó có 50 sĩ quan chỉ huy, đã đến được Điện Biên Phủ.
Việt Minh đã có đủ vũ khí trang bị cho một trung đoàn.
Ngày 18 tháng 12 năm 1953
Trung úy Uplat rời Lai Châu bằng đường Pavie cùng 6 đại đội hành quân về Điện Biên Phủ, đối đầu với một phân đội Việt Minh rất mạnh. Quân Việt Minh bắn súng cối, rất nhiều tử vong. Người Việt tấn công chớp nhoáng. Vài giờ sau nhóm Uplat bị tiêu diệt. Trung úy, một vài sĩ quan điều hành và sáu người lính trốn thoát. Họ đã phải ẩn nấp 4 ngày và báo cáo vị trí của họ bằng radio. Một chiếc trực thăng đã đón họ vào ngày 22 tháng 12.
Cùng ngày xuất hiện những thùng linh kiện đầu tiên của xe tăng Shaffee M24 nặng 18 tấn đầu tiên: xe tăng hạng nhẹ thế hệ mới nhất của Mỹ.
Chuyến thăm của ngài Stewwart, cố vấn đối ngoại của Vương quốc Anh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1953
19:00 – Chiến dịch Régate
Đóng trại đêm đầu tiên tại Pao Sao Lao và các thôn lân cận.
Tối: Tin tức về tiểu đoàn Trinh sát, Sư đoàn 316 báo cáo về Bộ chỉ huy Việt Minh, về sự hiện diện của một phân đội lắp ráp xe tăng ở Điện Biên Phủ. Thông tin này được các đặc vụ Hà Nội tham khảo chéo và ngay lập tức được khai thác. Những thông tin khai thác từ nghe lén của quân Pháp đã không mất nhiều thời gian phát hiện lực lượng tăng cường vũ khí và đạn dược chống tăng khi họ vượt qua biên giới Trung Quốc, đặc biệt hơn còn phát hiện được tên lửa phóng điện 90 mm mới phục vụ cho các trung đoàn hành quân về phía doanh trại.
Ngày 24 tháng 12 năm 1953
12 giờ trưa
Chiến dịch Régate: Trung đoàn lính dù lê dương đầu tiên dừng tại Home Kang.
Điện Biên Phủ: Một người lính lê dương đã bước vào một khoang chứa đạn pháo cùng một ngọn nến và gây ra vụ cháy nổ. Ngọn lửa lan rộng với tốc độ chóng mặt. Mỗi người tự cứu lấy mình. Rất nhanh hầm chứa phát nổ phóng lên trời một cột lửa lớn cùng với đất đá và các mảnh kim loại, sém chút nữa đã thiêu hủy một chiếc đang chuẩn bị hạ cánh và vừa bay qua khu vực cách đó ba mươi mét.
– Một lũ ngu ngốc, Trung úy Turcy hét to, tái mặt vì giận dữ. Chúng ta đã thoát hiểm trong gang tấc: suýt chút nữa là chúng ta bắn hạ chiếc Dakota của Tướng Navarre!
Tin tức bí mật vừa được xác nhận. Tướng Navarre quyết định đến Điện Biên Phủ ăn mừng lễ Giáng sinh giữa đồn cùng Cogny và bộ tham mưu.
Navarre, Cogny, De Castries
18:00
Gaucher chỉ tay, bàn tay dang rộng, về phía Sư đoàn 1 đóng quân.
- Hãy bảo Brindon cử Capeyron tới đó. Riêng anh ta cũng có thể tạo lễ hội hóa trang với những vết thương của mình.
Capeyron chỉ huy Đại đội 3 của Sư đoàn 1, bị thương trong cuộc hành quân ở vùng đồng bằng, lẽ ra anh ta không nên đến Điện Biên Phủ. Nhất là khi anh ta sắp mãn hạn thời gian bốn năm tại đây. Tuy nhiên, ngay khi đứng dậy được, Capeyron đã chống gậy có mặt tại Sư đoàn. Capeyron là một sĩ quan của quân đoàn “cũ” với lý tưởng không bao giờ bỏ rơi đồng đội khi anh ta vẫn còn là chỉ huy.
Với giọng nói đanh thép, khuôn mặt căng mịn cùng bộ ria mép mỏng, Capeyron có đôi mắt trong veo, màu xám khi tâm trạng vui vẻ, xanh lam khi tức giận. Lúc này, tâm trạng của anh ta không tốt. Vết thương khiến anh không thể ra ngoài tuần tra cùng đồng đội của mình và buộc phải túc trực hàng ngày tại sân bay để chào đón những nhân vật đến thăm. Gaucher thấy anh ta rất “nực cười”.
- Lên đường! Gaucher ra lệnh trong lúc nhảy lên chiếc Jeep.
Những người lính lê dương tỏ ra rất xúc động khi thấy Đại tá Gaucher đến thăm họ trong đêm thánh lễ. Đây là một trong những nghi lễ truyền thống của Sư đoàn, cũng quan trọng như lễ Camerone, nhưng đối với họ, đêm thánh lễ có ý nghĩa sâu sắc hơn.
Ngoài khía cạnh tôn giáo đơn thuần, Giáng sinh còn là cầu nối với quá khứ của mỗi người, họ có thể cho phép mình có một chút hoài niệm và nếu họ uống đến say thì đó gần như là lúc họ đang hồi tưởng.
Gaucher nhìn sang một bên. Ông ta nhìn thấy khuôn mặt của Pégot, gầy gò, căng thẳng, chỉ đôi mắt vẫn sáng. Gaucher bỗng thấy thương cảm cho người chỉ huy của mặt trận thứ 3, và ông ta không phải là người duy nhất có tình cảm này.
Có lẽ bởi vì cũng như anh, mọi người trong Sư đoàn đều hiểu rằng nơi đây chính là nấm mồ chôn dành cho người chỉ huy.
Gaucher đã uống rất nhiều đến khản cả giọng.
Trên đường trở lại trung tâm, Đại tá nói:
- Chúng ta sắp tổ chức lễ Giáng sinh và những người lính sẽ say khướt. Tôi cũng vậy. Cậu có biết người Việt làm gì trong thời gian này không? Họ sẽ đến. Trước đó, tôi đã xem báo cáo của một hạ sĩ quan, Thượng sĩ Fels, thuộc Đại đội 11. Cậu ta không say. Cùng với bốn người, cậu ta đi tuần tra trên núi, cách đây 8 km, phía trên đường Tuần Giáo. Và cậu ta đã nhìn thấy họ. Từng đoàn xe tải, Veyes bé nhỏ của tôi. Những đoàn xe tải còn chẳng ngụy trang, họ thậm chí để đầy đủ đèn pha. Điều này có nghĩa là Tướng Giáp đã chấp nhận cuộc chiến. Gaucher gật đầu: Đây là lý do tại sao Langlais và đám lính dù của anh ta đã phàn nàn vô lý khi phải đi thám thính đường mòn Sốp Nao...
Bên cạnh Bộ chỉ huy của Đại tá De Castries, một chiếc lều lớn đã được dựng lên với những chiếc bàn lớn dựng tạm để đặt chai và cốc chén. Đứng xung quanh là các chỉ huy của tất cả các đơn vị có mặt tại Điện Biên Phủ tối nay. Rất nhiều gương mặt mới, mỗi ngày đều có thêm đoàn lính mới đến. Không khí thoải mái và thân thiện.
Họ ở đây rất đông tối nay. Những người lính cắm bản doanh trong lần thả dù đầu tiên, nhân viên hành chính của Trung đoàn dù ngoại quốc, lính dù pháo binh hoặc súng cối hạng nặng. Các sĩ quan Thái Lan đến từ Lai Châu vào đầu tháng 12, lính lê dương, xung kích số 8, lính súng trường vừa thả dù từ những chuyến bay cuối cùng.
Xung quanh De Castries, trong những chiếc áo sơ mi để mở cổ lộ ra những chiếc khăn lụa đỏ nổi tiếng, là các sĩ quan cấp cao của bộ tham mưu “Nhóm tác chiến Tây Bắc” (Gono). Guth, tham mưu trưởng, với vẻ bận rộn của một con chuột chũi chăm chỉ, Piroth, người lính pháo binh một tay với khuôn mặt vui vẻ và bao người khác.
Đứng gần họ, trong vai bà chủ nhà, là người phụ nữ duy nhất trong trại, một cô gái tóc nâu với mái tóc dài ôm trọn khuôn mặt đầy đặn, dáng người nhanh nhẹn khoác trên mình bộ quân phục, cũng nhờ đó mà bộ quân phục không còn giống một chiếc bao tải nữa.
Navarre bước vào, theo sau là các nhân viên: Revol, chánh văn phòng, phong thái lạnh lùng, khuôn mặt lạnh băng, và Pouget, trợ lý doanh trại, chỉ đứng im quan sát.
Navarre bắt tay, khuôn mặt lạnh băng.
Với cây gậy, lo sợ bị giẫm đạp, Capeyron là người cuối cùng trong hàng. Anh ta nhìn thẳng vào mắt vị tướng nhưng chỉ nhận được một cái cau mày mơ hồ đáp lại, giống như một dấu hiệu thể hiện sự khó chịu.
Navarre quay trở lại đứng giữa các sĩ quan.
Ông ta cầm lên một cốc rượu, giữ nó ngang ngực và cất tiêng. Không có ngọn lửa, không có niềm đam mê. Các sĩ quan trẻ chờ đợi những lời nói nhiệt tình, chứa đầy hy vọng và lòng dũng cảm, cũng có thể sẽ là một trong những lời nói dối đầy ánh hào quang mà họ đã được nuôi dưỡng trong nhiều thập kỷ, điều mà họ biết đều là sự dối trá nhưng họ cần niềm tin. Navarre không đảm nhận nổi:
- Các điều kiện để chiến thắng đã được đáp ứng, ông kết luận. Các bạn sẽ chiến đấu vì Điện Biên Phủ…
Họ biết rằng nếu tướng Navarre không thể cam kết nhiều như họ mong muốn thì đó là vì Paris ở quá xa, đối với nước Pháp, cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ là một sự cố mà một số ít phỉ báng trong khi hầu hết người ta bỏ qua. Nếu các chiến binh Pháp đơn độc, Navarre chắc chắn chính là kẻ cô đơn nhất trong số họ. Đó không phải là một sự phán xét mà là sự quan sát cay đắng trước tình trạng sự việc.
Ở Điện Biên Phủ, chúng tôi chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Bên dưới Bộ chỉ huy của Castries một chút, trong bóng tối của một thân cây to lớn bị cắt xẻ ở lối vào lô cốt của Đại tá Gaucher, những người lính lê dương đã dựng lên một cây thông Giáng sinh khổng lồ và trang trí với tất cả những gì có được với những vòng hoa bằng giấy màu và bóng đèn màu thủy ngân. Bệnh xá cho mượn những bịch bông, phân xưởng ô tô cho mượn đèn pha ô tô, Chính ủy cho mượn một lô chăn, dù đủ màu sắc. Bàn thờ được dựng lên trông thật tuyệt vời. Trong một buổi tối, nó trở thành trung tâm thu hút của cả doanh trại.
20:00
Thánh lễ tại Bộ chỉ huy.
Chiến dịch Régate: Langlais và Tourret, Trung đoàn dù ngoại quốc số 1 và xung kích số 8 trải qua buổi tối cách Điện Biên Phủ 20 km trên đường trở về từ Sốp Nao. Buổi tối Giáng sinh dưới bầu trời trong lành rải rác những vì sao, không có ánh lửa.
(Còn tiếp)
Quyên GAVOYE
1 đã tặng
1
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...