Thứ sáu, ngày 02 tháng 05 năm 2025
20:39 (GMT +7)

Văn học, nghệ thuật Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới, phát triển (1975 - 2025) - Kỳ 2

 (tiếp theo kỳ trước)

2.3. Sân khấu                                                                                                              

Sân khấu đương đại có sự phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới với các tác giả Lưu Quang Vũ, Tào Mạt, Xuân Đức, Xuân Trình, Tất Đạt, Hoài Giao, Thanh Hương, Nguyễn Khắc Phục, Doãn Hoàng Giang, Chu Thơm, Nguyễn Huy Thiệp… Ở các giai đoạn tiếp theo, sân khấu bớt dần sự sôi động, nguyên nhân chủ yếu là thiếu vắng dần những tác giả, tác phẩm có khả năng thu hút công chúng; sự lấn sân, tranh chấp công chúng của các loại hình nghệ thuật trên các phương tiện nghe nhìn và không gian mạng… Hiện tượng Lưu Quang Vũ chói sáng trong khoảng thời gian 10 năm (từ 1978 đến lúc bị tử nạn - 1988) với hơn 50 kịch bản sân khấu đề cập trực diện, mổ xẻ táo bạo những vấn đề nóng bỏng, bức xúc của xã hội(6). Cùng với Lưu Quang Vũ, các tác giả khác cũng cho ra mắt những vở kịch mới, có những vở thành công(7).

Quang cảnh Hội thảo khoa học “50 năm văn học nghệ thuật Việt Nam đồng hành cùng dân tộc” do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương tổ chức, ngày 23/4/2025 tại Hà Nội
Quang cảnh Hội thảo khoa học “50 năm văn học nghệ thuật Việt Nam đồng hành cùng dân tộc” do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương tổ chức, ngày 23/4/2025 tại Hà Nội

Nếu như “bước ngoặt” quan trọng thứ nhất của kịch đương đại là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới thì “bước ngoặt” thứ hai được tính từ năm 1997, khi chủ trương xã hội hóa có hiệu lực và năm 2002, sân khấu thực hiện cơ chế tự chủ. Giai đoạn này, sân khấu đã lôi cuốn giới sáng tạo vào hai khuynh hướng: dựng lại những vở cũ, đi vào đề tài cổ tích, dân gian, lịch sử; và khuynh hướng đáp ứng nhu cầu giải trí của khán giả và có tiền nuôi sống các đoàn nghệ thuật(8). Một số đoàn nghệ thuật sân khấu ngoài khu vực nhà nước đi vào cơ chế thị trường với những nổi chìm khác nhau: Sân khấu Lệ Ngọc (phía Bắc), Nụ Cười Mới, Nhà hát Thế Giới Trẻ, Sân Khấu Nhỏ, Sân khấu kịch TKC (phía Nam).

Cho đến hôm nay, mặc dù đã có những đổi mới và tiến bộ, sân khấu nói chung, nhất là sân khấu truyền thống đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức, kể cả bên bờ vực của sự sống chết.

2.4. Điện ảnh

Sau năm 1975, điện ảnh Việt Nam có nhiều đổi mới. Đội ngũ làm phim đông đảo, máy móc, thiết bị hiện đại, đề tài làm phim đa dạng hơn. Ngoài những phim về chiến tranh, còn có thêm các đề tài về đô thị miền Nam, về cuộc sống thời hậu chiến.

Xưởng phim Giải phóng - thành lập từ tháng 1 năm 1962 - được mở rộng quy mô, sản xuất nhiều loại hình phim, đổi tên thành Xưởng phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Một xưởng phim khác mang tên Nguyễn Đình Chiểu cũng được thành lập mà tiền thân là hãng phim Alpha của Sài Gòn trước năm 1975.

Bộ phim đầu tiên được ra đời sau 1975 là Bên lề 30-4. Tiếp đó, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt bộ phim Cô Nhíp (1976). Ở phía Bắc, Hãng phim truyện Việt Nam có các phim Ngày lễ thánh của Đạo diễn Bạch Diệp và Sao tháng Tám, đạo diễn Trần Đắc.

Phim Cánh đồng hoang do nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, hai diễn viên chính là Lâm Tới và Thúy An. Cánh đồng hoang đã giành được nhiều giải quan trọng trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 năm 1980 và Huy chương Vàng tại Liên hoan phim Quốc tế Moskva, 1981.

Từ thập niên 1980 trở đi, đề tài làm phim đa dạng, phong phú hơn. Đạo diễn Phạm Văn Khoa có hai bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học, Chị Dậu (1980) từ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Làng Vũ Đại ngày ấy (1983) từ Sống mòn, Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao. Đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng cho ra mắt nhiều bộ phim xuất sắc: Thị xã trong tầm tay (1982), Bao giờ cho đến tháng Mười (1984), Cô gái trên sông (1986), tiếp đó là các phim Trở về (1994), Thương nhớ đồng quê (1995), Hà Nội mùa đông năm 46 (1997), Mùa ổi (2001), Đừng đốt (2009).

Luồng gió mới đến với điện ảnh Việt Nam khi các nhà làm phim nước ngoài và các nhà làm phim Việt kiều vào Việt Nam sáng tạo tác phẩm. Những tác động của họ làm cho điện ảnh Việt Nam hội nhập tốt hơn với khu vực và thế giới(9).

Từ giữa thập niên 1990 trở đi, số lượng phim tăng lên. Ngoài những phim khai thác đề tài chiến tranh như Hà Nội, mùa đông năm 1946 (1997) của Đặng Nhật Minh, Ngã ba Đồng Lộc (1997) của Lưu Trọng Ninh, Đời cát (1999) của Nguyễn Thanh Vân, Ai xuôi Vạn Lý (1996) của Lê Hoàng... các nhà làm phim đã hướng tới những đề tài đương đại: Vương Đức với Những người thợ xẻ (1998), Nhuệ Giang với Thung lũng hoang vắng (2000), Đỗ Minh Tuấn với Vua bãi rác (2002)...

Năm 2000, Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương được tổ chức ở Hà Nội. Điện ảnh Việt Nam đã giành được nhiều giải quan trọng: Giải Phim hay nhất cho Đời cát của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, hai diễn viên Mai Hoa và Hồng Ánh trong Đời cát đạt hai giải dành cho nữ diễn viên chính và nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Trước đó, năm 1999, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai của Trần Văn Thủy đạt phim ngắn hay nhất tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan.

Mấy năm gần đây, một số phim điện ảnh nước ta, nhất là ở phía Nam đi theo xu hướng tâm lý xã hội - thị trường, phần lớn các phim do khu vực ngoài nhà nước sản xuất, kinh doanh như Đất rừng phương Nam, Bố Già, Nhà bà Nữ, Mai của Đạo diễn kiêm Nhà sản xuất Trấn Thành đạt doanh thu mỗi phim từ 300 tỷ đồng đến 600 tỷ đồng. Tiếp đó là các phim Nụ hôn bạc tỉ của Thu Trang; Đèn âm hồn của youtuber Hoàng Nam; các phim khác: Lật mặt 6: Tấm vé định mệnh, Siêu lừa gặp siêu lầy, Hai Phượng, Cua lại vợ bầu, Mắt biếc đạt doanh thu mỗi phim từ 180 tỷ đồng đến 300 tỷ đồng… Một số phim về đề tài chiến tranh cách mạng cũng thu hút đông đảo lượng người xem như Đào, phở và piano, Địa đạo - Mặt trời trong bóng tối…

2.5. Âm nhạc

Sau năm 1975, nền tân nhạc Việt Nam có nhiều thay đổi. Để xây dựng một chế độ mới, lãnh đạo đất nước đã tiến hành cuộc cách mạng sâu rộng về văn hóa, tư tưởng, đấu tranh chống tàn dư sản phẩm văn hóa của chế độ cũ. Thời kỳ đầu, các dòng nhạc “vàng” bị cấm hoặc hạn chế, các ca sĩ nhạc vàng được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống (nhạc đỏ). Một số văn nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ, ca sĩ ra nước ngoài định cư. Đề tài sáng tác nổi trội trong giai đoạn này là ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương, chiến tranh cách mạng(10).

Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trần Tiến chịu ảnh hưởng của phong trào du ca trước năm 1975 đã có những sáng tác mới lạ thời bấy giờ được công chúng yêu mến: Mặt Trời bé con, Tùy hứng lý qua cầu, Tạm biệt chim én,... Các ca sĩ thành danh như: Cẩm Vân, Bảo Yến, Nhã Phương, Quang Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển... Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ.

Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh (do Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc Tình thôi xót xa (Bảo Chấn)) khiến trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến... góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi danh.

Đã xuất hiện nhiều nhạc sĩ hòa âm phối khí như: Quốc Dũng, Bảo Chấn, Sĩ Dan, Tùng Châu, Quốc Trung, Mạnh Trinh, Trần Thanh Tùng, Quang Phúc, Đức Trí, Hoài Sa, Lê Quang, Lý Huỳnh Long... Nghề mix nhạc (DJ) cũng xuất hiện và phát triển. Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: Vọng cổ buồn (Minh Vy), Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang (Vũ Đức Sao Biển), Quê em mùa nước lũ (Tiến Luân), Duyên phận (Thái Thịnh)...

Một số ca sĩ Việt Nam mong muốn vươn ra thị trường âm nhạc khu vực và thế giới và có được những thành công nhất định: Mỹ Tâm được Đài Truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất; Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng; Sơn Tùng M-TP là nam ca sĩ tiêu biểu của dòng nhạc V-pop. Thành công với các ca khúc nhạc trẻ, đặc biệt là nhạc Hàn Quốc tác động mạnh mẽ đến giới âm nhạc và công chúng trẻ Việt Nam. Đến nay, dòng nhạc trẻ đã trở nên phổ biến, trên nền tảng trực tuyến, có một số ca khúc và ca sĩ đạt hàng chục triệu, hàng trăm triệu lượt xem (Hòa Minzy, Đen Vâu, Hoàng Thùy Linh, Sơn Tùng M-TP…).

Khác với dòng nhạc trẻ V-pop đang phát triển mạnh mẽ trong nước, dòng nhạc dân tộc truyền thống ngày càng gặp nhiều khó khăn, những người thích dòng nhạc này phần đông đã lớn tuổi, còn giới trẻ lại muốn tìm đến những sản phẩm và trào lưu âm nhạc mới...

2.6. Mỹ thuật         

Nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao đẹp với những tên tuổi lớn như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tự Nghiêm… Từ năm 1975, mỹ thuật nước ta đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân, của nhóm và nhất là triển lãm mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn năm năm một lần, điều này chứng tỏ rằng khuynh hướng con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một hướng đi lên mạnh mẽ của nền mỹ thuật. Đến đây mỹ thuật đã có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội: Phố cổ (Bùi Xuân Phái), Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo (Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)…

Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, là một bước tiến vượt bậc, bộc lộ tiềm năng sáng tác mới hứa hẹn bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tới - nhất là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Tiêu biểu một số tác phẩm như: Tượng Bác Hồ bên suối Lênin (Diệp Minh Châu), Mẹ chiến sĩ (Hoàng Trầm), Đảo tiền tiêu (Tạ Quang Bạo)...

Trong vòng 5 năm (1984 - 1989) đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả, trưng bày 8879 tác phẩm là cả một sự “bung ra” với nhiều đề tài đời thường. Các hoạ sĩ thâm nhập đời sống xã hội, của làng xóm, phố thị, miền núi, nông thôn tạo cảm hứng sáng tác. Bước sang thập niên 90, công cuộc đổi mới đã có kết quả rõ rệt, đất nước khởi sắc hẳn lên, mỹ thuật cũng đạt được những thành đáng tự hào. Các tượng đài, đài tưởng niệm, các công trình kiến trúc có quy mô lớn bằng chất liệu vững bền được tạo dựng, nhiều cuộc triển lãm được tổ chức, nhiều phòng tranh mọc lên, tranh ảnh, tranh tết, tranh cổ động, quảng cáo.

Trải qua hơn 65 năm xây dựng và phát triển (1957 - 2024), Hội Mỹ thuật Việt Nam đã đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại cũng như trong công cuộc phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ 123 hội viên ban đầu, đến nay Hội đã có gần 2.000 hội viên đang sinh hoạt tại hơn 70 chi hội thuộc 63 tỉnh, thành trong cả nước.

 (còn nữa)

PGS.TS. Nhà văn Nguyễn Thế Kỷ

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương, Trưởng Ban LLPB Văn học nghệ thuật

------

Chú thích:

(6) Những vở diễn nổi tiếng của Lưu Quang Vũ: Lời nói dối cuối cùng, Nàng Sita, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Mùa hạ cuối cùng, Tôi và chúng ta, Nguồn sáng trong đời, Lời thề thứ 9, Điều không thể mất…

(7) Xuân Trình: Giấc mơ mầu hồng ngọc, Nửa ngày về chiều, Nghĩ về mình, Hai người mẹ…; Xuân Đức: Nhiệm vụ hoàn thành, Cuộc chơi, Người mất tích, Chuyến tàu tốc hành trong đêm, Cái chết chẳng dễ dàng gì…; Chu Lai: Hà Nội đêm trở gió, Ký ức lửa, Sóng muôn đời thao thức (viết chung với nhà biên kịch Chu Thơm); Võ Khắc Nghiêm: Bi kịch ngược chiều, Quy luật muôn đời, Bỉ vỏ…; Hữu Ước: Vòng xoáy; Nguyễn Huy Thiệp: Suối nhỏ êm dịu, Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình Nhà tiên tri, Hoa sen nở ngày 29 tháng 4…

(8) Đó là các nghệ sĩ Hữu Danh, Phạm Văn Quý với Dòng đời vô tận, Người thi hành án tử, Trọn đời trung hiếu với Thăng Long, Tình sử Vương triều, Chiến trường không tiếng súng, Cạm bẫy và trừng phạt, Những người con Hà Nội…; Hữu Ước với Quả báo, Khoảnh khắc mong manh, Vòng đời, Sếp rởm, Vòng vây cô đơn, Vòng xoáy, Người đàn bà uống rượu, Giấc mơ quan…; Nguyễn Hiếu với Chuyện như thế thì cần phải nói (hài kịch); Bốn trái tim đau; Trò đùa của dân, Nước mắt đàn ông; Linh hồn đông lạnh, Hàng rào giữa hai nhà, Khi giàn mùng tơi gẫy rập, Chu Văn An - Người thầy của muôn đời, Kiều...; Nguyễn Quang Vinh với Hồ Chí Minh, hồi ức màu đỏ, Chuyện tình bên dòng sông, Vú cát, Mắt phố...; Nguyễn Thế Kỷ với Chuyện tình Khau Vai, Mai Hắc Đế, Hừng Đông, Thầy Ba Đợi, Hoa lửa Truông Bồn, Huyền Thoại Gò Rồng Ấp, Ngàn năm mây trắng, Nợ nước non (5 tập). 

(9) Năm 1992, 2 bộ phim Pháp thực hiện ở VN: Người tình (L'Amant), Đạo diễn Jean-Jacques Annaud dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras với các diễn viên Pháp Jane March và diễn viên Hồng Kông Lương Gia Huy. Phim Đông Dương (Indochine), đạo diễn Régis Wargnier và hai ngôi sao Catherine Deneuve, Vincent Perez và diễn viên người Pháp gốc Việt Phạm Linh. Đông Dương được trao giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1992.

Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp nhà nước được Chính phủ phê duyệt và bước đầu triển khai. Năm 1985, đạo diễn Hồ Quang Minh từ Thụy Sĩ về nước thực hiện bộ phim Con thú tật nguyền (Hãng phim Giải Phóng) và Trang giấy trắng (1991), Bụi hồng (1996)…

Năm 1993, đạo diễn trẻ người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim đầu tay Mùi đu đủ xanh (L'Odeur de la papaye verte) tại Pháp. Mùi đu đủ xanh giành được giải Trẻ và giải Camera Vàng trong Liên hoan phim Cannes năm đó. Sang năm 1994, phim được đề cử tranh giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất và giành được giải César cho tác phẩm đầu tay.

Năm 1995, Trần Anh Hùng trở về Việt Nam làm phim Xích lô (Cyclo). Phim đã giành được giải Sư tử Vàng và giải FIPRESCI tại Liên hoan phim Venezia năm 1995. Năm 1999, Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim thứ ba Mùa hè chiều thẳng đứng (À la verticale de l'été) với sự tham gia của Lê Khanh, Như Quỳnh, Trần Quang Hải, Lê Tuấn Anh...

Sang thập niên 2000, làn sóng các đạo diễn Việt kiều về nước làm phim trở nên mạnh mẽ. Như Hồ Quang Minh với Thời xa vắng (2004), Việt Linh với Mê Thảo - Thời vang bóng (2003), Nguyễn Võ Nghiêm Minh với Mùa len trâu (2004), Đoàn Minh Phượng với Hạt mưa rơi bao lâu (2005), Áo lụa Hà Đông của Lưu Huỳnh (2006). Dòng máu anh hùng của Charlie Nguyễn (2007).

(10) Viếng lăng Bác, Miền Nam Nhớ mãi ơn Người, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Đảng đã cho ta một mùa xuân, Dáng đứng Bến Tre; Tổ quốc yêu thương, Quê hương, Đất nước lời ru; Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh, Huyền thoại Mẹ, Bài ca không quên, Thuyền và Biển, Gửi em chiếc nón bài thơ, Giai điệu Tổ quốc, Tình ca Tây Nguyên; ca ngợi các phong trào lao động tập thể, thanh niên tình nguyện: Em ở nông trường anh ra biên giới, Hồ núi Cốc, Trị An âm vang mùa xuân, Tàu anh qua núi, Đêm thành phố đầy sao, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Mùa xuân từ những giếng dầu, Ơi cuộc sống mến thương, Bài ca xây dựng, Bài ca người thợ mỏ, Tình ca Vũng Tàu… Các nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn này là: Chu Minh, Phạm Tuyên, Thuận Yến, Diệp Minh Tuyền, Hoàng Vân, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Thế Hiển, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Hiên, An Thuyên, Phó Đức Phương, Phong Nhã, Trần Tiến, Nguyễn Ngọc Thiện...

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy