Thứ ba, ngày 24 tháng 06 năm 2025
05:03 (GMT +7)

Trái tim người giữ đảo

Sau nhiều giờ rẽ sóng biển giữa mùa gió chướng, tàu Trường Sa 571 lao mình về phía Đông xanh thẫm, tôi đã được đặt chân lên đảo Song Tử Tây trong chuyến công tác đầu tiên ra Trường Sa. Nơi đầu sóng, Song Tử Tây như một trang sách về Tổ quốc mở ra ngay trước mắt tôi. Màu xanh ở đây không chỉ của cây, của biển, mà còn là màu xanh của sự sống, của tinh thần bất khuất và của những trái tim gắn trọn với biển đảo quê hương.

Trái tim người giữ đảo
Trụ sở UBND xã Song Tử Tây

Gặp trang sách mang hình Tổ quốc

Giữa bao nhiêu câu chuyện đẹp về người giữ đảo, có một cuộc trò chuyện khiến tôi không kìm nén được sự xúc động của mình. Đó là cuộc gặp với anh Cao Văn Giáp, Phó Chủ tịch xã Song Tử Tây, một trong những cán bộ đầu tiên ra đảo xây dựng hạ tầng cách đây gần hai mươi năm.

Trong đoàn quân dân đón chúng tôi ở âu cảng, một người đàn ông bước đi thoăn thoắt, gương mặt sạm đen vì sương gió nhưng ánh mắt ánh lên vẻ hiền từ với nụ cười ấm áp khiến tôi chú ý. Đang trĩu tay ôm nào ba lô quần áo, máy ảnh,… thì một bàn tay chìa ra đỡ lấy chiếc ba lô của tôi. Chả là để đảm bảo an toàn cho tư trang nên trước khi xuống xuồng, chúng tôi mỗi người được phát một chiếc túi nilon chống nước, bọc bên ngoài hành lý của mình. Giữa cái nắng oi gắt như muốn héo thịt ra sau bão, lên khỏi xuồng, chúng tôi ai nấy đều cắp hành lý để di chuyển mà không kịp  dừng lại tháo túi bảo quản nên mới khệ nệ bê, cắp. Rồi một bàn tay đã nhẹ nhàng đỡ lấy chiếc ba lô nặng trĩu của tôi. Tôi ngẩng lên, anh cười: “Để tôi giúp chị, lên đảo rồi mà còn cắp thế khổ lắm!”. Không chỉ tôi, mà những người trong đoàn đều được các cán bộ, chiến sĩ trên đảo hỗ trợ tận tình như thế.

Trái tim người giữ đảo
Anh Cao Văn Giáp, Phó Chủ tịch xã Song Tử Tây

Anh chủ động giới thiệu mình là Cao Văn Giáp, Phó Chủ tịch UBND xã đảo. Anh hỏi tôi tình hình mọi người trong đoàn những ngày qua. Khi nghe thông tin, đoàn chúng tôi chỉ có thể ở lại đảo một đêm, ngày mai phải trở lại tàu, ánh mắt anh chùng xuống. Giọng anh đượm buồn: Chúng tôi đã rất mong các anh chị. Trên đảo ai cũng háo hức khi biết kế hoạch đoàn sẽ nán lại đảo vài ngày. Tôi cũng lấy làm tiếc bởi cơn bão 4 ngày trước khiến biển động dữ dội, chúng tôi phải neo lại trên tàu, đồng nghĩa với thời gian được lên đảo bị rút ngắn lại.

Từ âu cảng đến nơi tập trung chỉ vài trăm mét, nhưng quãng đường ấy với tôi như một màn chào đón ấm áp giữa biển trời, mở đầu cho những cuộc gặp gỡ không thể nào quên.

Khi biết anh là một trong số ít người có mặt kiến thiết đảo từ những ngày đầu tiên, tôi và nhà báo Thái Thịnh của Báo Khánh Hòa đã chờ để anh thu xếp xong công việc, đến giữa trưa, chúng tôi tranh thủ theo chân anh về trụ sở UBND xã để được trò chuyện riêng. Khoảnh sân của trụ xã đảo đầy nắng, dưới lá quốc kỳ tung bay kiêu hãnh trong gió là hàng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Ủy ban Nhân dân xã Song Tử Tây”, bên dưới nữa là khẩu hiệu “Quân, dân xã đảo Song Tử Tây đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc”.

Phòng ở anh Giáp ở tầng 2 của trụ sở 2 tầng, giản dị nhưng thoáng đãng. Anh Giáp mời chúng tôi ngồi uống nước ở bộ bàn ghế đơn sơ kê ở góc phòng, bên cạnh là chiếc bàn làm việc đã cũ, giấy tờ được xếp gọn gàng, ngăn nắp. Một chiếc kệ gỗ nhỏ bày vỏ ốc, mấy quả bàng vuông đã khô và một vài viên gạch, ngói có đề dòng chữ “Song Tử Tây – Trường Sa năm 2007”. Tôi lặng người, khi nhìn về phía ô của sổ, nơi một góc khuất trong phòng, trên chiếc giá gỗ nhỏ là tấm di ảnh của một người nhiều tuổi trong trang phục quân nhân Việt Nam và một bát hương nhỏ, bên dưới là bát hoa giả nhỏ xíu.

Anh Giáp giải thích: Ở đây phòng làm việc của tôi đồng thời là phòng ở. Di ảnh kia là ông cụ thân sinh ra tôi. Hai hàng nước mắt nóng hổi từ từ lăn xuống gò má mà tôi không sao ngăn được. Cố nén xúc động, tôi nhấp ngụm nước và bắt đầu câu chuyện.

Trái tim người giữ đảo
Góc làm việc của Phó Chủ tịch xã Cao Văn Giáp

 Người viết đơn tình nguyện ra đảo và chọn ở lại

Anh Giáp kể, năm 2007, khi mới 23 tuổi, vừa tốt nghiệp và đang là đội viên thanh niên tình nguyện ở Cam Lâm, anh viết một lá đơn với dòng đầu tiên đầy quả quyết: “Đơn tình nguyện ra đảo sinh sống và công tác.” Một lá đơn gửi tới Sở Nội vụ Khánh Hòa như gửi đi cả trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ cho Tổ quốc. Anh Giáp còn nhớ như in từng câu, từng chữ anh viết ngày đó:

“Tôi là Cao Văn Giáp, sinh năm 1984, hiện công tác tại Đội Thanh niên tình nguyện huyện Cam Lâm. Nay tôi viết đơn xin xung phong được ra đảo công tác. Lý do, là thanh niên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của tất cả mọi người dân Việt Nam, trong đó có tôi. Chính vì vậy, tôi viết đơn này xin được lên đường đi xây dựng biển đảo quê hương của Tổ quốc. Kính mong tổ chức, cơ quan các cấp xét duyệt cho”. Thế là lên đường.

Người thanh niên 23 tuổi năm ấy, dù không theo nghiệp binh như cha mình, một Đại tá quân đội, nhưng đã chọn một con đường không kém phần gian lao và can trường. Trước quyết định của anh, bố anh gật đầu: "Con không chọn binh nghiệp, nhưng con chọn con đường xây dựng Tổ quốc theo cách của con. Cứ vững chí lên đường, bố ủng hộ”. Còn mẹ và em gái anh thì khóc. Nhưng chí nam nhi đã quyết, anh thuyết phục mẹ, động viên em hãy tin tưởng vào sự lựa chọn của anh. Tổ quốc cần những người trẻ như anh chung tay giữ gìn biển đảo. Trước sự kiên định và lý tưởng tuổi trẻ của anh, cả gia đình đã đồng ý tiễn anh lên đường với lời dặn duy nhất “Nhất định phải giữ gìn sức khỏe, nhất định phải bình an trở về”.

Đảo hoang sơ, không điện, không một luống rau xanh, mỗi người chỉ được 7 lít nước/ngày. Tối đến, dưới đèn măng xông, bảy, tám người chia nhau một điếu thuốc. Một gói cà phê hoà tan, mỗi người nhấp một ngụm, ngụm café bé đến nỗi chẳng đủ rơi xuống họng. Vui, mà cay khóe mắt.

Anh Giáp đưa cho chúng tôi xem một viên gạch đỏ in hình Quốc huy, rồi bảo: “Viên gạch này đặt nền móng cho trụ sở xã đầu tiên, cũng là nền móng cho cuộc đời tôi. Từng viên gạch, viên ngói thời điểm đó đều được in hình Quốc huy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trân quý vô cùng”.

Trái tim người giữ đảo
Một góc nhỏ trong căn phòng được anh đặt di ảnh của người cha là Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam

 Giọng anh chùng xuống khi kể về những cái Tết đầu ở đảo. Tết năm ấy, gia đình báo tin gửi cho anh một thùng quà Tết, nhưng khi con tàu rời đảo anh vẫn không nhận được quà của mình. “Tôi lặng lẽ đứng nhìn theo con tàu cứ xa dần hướng về bờ. Sau đó tôi mới biết, thùng hàng của mình đã bị bốc nhầm lên đảo khác. Chỉ vậy thôi, một gói hàng nhỏ thất lạc giữa trùng khơi đã làm anh bật khóc. “Vì ở đây, cực khổ đến đổ máu là bình thường. Nhưng có lẽ nỗi cô đơn và cảm giác hụt hẫng mới là thứ khó vượt qua nhất”.

Anh kể, mỗi lần phép về đất liền, đều là cuộc hội ngộ đẫm nước mắt và chia ly day dứt. Lần về phép đầu tiên là 2 năm sau ngày anh lên đường nhận nhiệm vụ. Không có điện thoại để thông báo trước, anh về đến nhà lúc 2 giờ sáng, không ai hay biết, chỉ con chó nhà nuôi là nhận ra anh. Nó sủa lên vài tiếng, anh khẽ quát: “im, im nào!”, thế là nó nằm xuống vẫy đuôi mừng chủ. Anh đặt ba lô xuống ghế dài, nằm vật ra ngủ. Sáng hôm sau, cả nhà tỉnh dậy, giật mình khi thấy anh, tưởng là mơ. Mọi người xúm lại, người sờ vai, người nắn tay xem có bị thương tích gì không. Thời ấy, tin tức về Trường Sa còn hiếm hoi, ai cũng mang trong lòng nỗi lo thường trực.

Mẹ hỏi anh muốn ăn gì. Anh đáp không cần suy nghĩ: “Mẹ mua cho con ba ký thịt ba chỉ, với một thúng rau xanh”. Mẹ tròn mắt: “Con mời khách à? Ăn uống gì lạ vậy? Để mẹ làm thịt gà”.

Anh lắc đầu, cười nhẹ: “Không có khách nào đâu mẹ, con ăn đó”. Mẹ anh không tin, nhưng trước sự nài nỉ tha thiết, bà cũng đi chợ, song chỉ mua về có hai ký thịt.

“Mẹ hỏi: chỗ này kho hay luộc? Tôi bảo: mẹ luộc hết đi”.

Bữa cơm hôm ấy, anh ăn gần hết hai ký thịt luộc. Sau đó… ba ngày không ăn nổi cơm. Anh kể lại, vừa cười, vừa rưng rưng. Đó không phải là một bữa ăn no, mà là một bữa ăn để bù đắp những năm tháng thiếu thốn của đảo xa, rất đỗi người, rất đỗi lính.

Trái tim người giữ đảo
Những kỷ vật được anh Giáp nâng niu, trân trọng trong phòng làm việc, đồng thời cũng là phòng ở

Thế giới hai nửa và những lần lỡ hẹn

Người phụ nữ anh chọn làm vợ không chỉ là một người vợ thủy chung, mà còn là một trụ cột âm thầm gánh nặng cả hai vai: nuôi con, chăm sóc cha mẹ hai bên, thay chồng gánh vác mọi nỗi lo thường nhật. Đứa con đầu lòng, khi anh trở về phép, không nhận ra cha. Sáng thức dậy, thấy một người đàn ông lạ trong nhà, cậu bé ngồi nép vào góc tường nhìn anh chằm chằm. Phải mất nhiều ngày làm quen, vừa kịp ẵm con vào lòng thì... đến ngày trả phép. Lại thêm hai năm nữa mới có dịp trở về. Đứa thứ hai, vợ sinh được sáu tháng anh mới được về thăm. Anh lặng người khi bảo, giờ chắc bé đã biết bò, biết gọi, nhưng trong ký ức của tôi, cháu vẫn là đứa trẻ oe oe tôi ẵm ngửa trước lúc lên tàu ra đảo.

“Bao năm rồi, tôi chưa từng đưa vợ đi sinh, chưa từng đưa cô ấy bế con vào viện khi con đau ốm, chưa từng tự tay bón cho con một viên thuốc,” anh nói, giọng chùng xuống, ánh mắt như nhìn xuyên ra biển xa. “Tôi biết vợ tôi tủi thân lắm, nhưng chưa bao giờ trách móc. Cô ấy hiểu, thương chồng và chọn cách gánh vác một nửa thế giới của tôi nơi đất liền”.

Anh kể, mỗi lần được về phép kỳ dài nhất cũng chỉ một tháng rưỡi nhưng “nghe thì dài thế, chứ vừa kịp quay đầu lại thì đã đến ngày lên đường”. Càng gần ngày trở lại đảo, nỗi lưu luyến càng đau đáu. “Còn bảy ngày, còn ba ngày, tôi đi dạo khắp xóm, nhìn từng gốc cây, ngọn cỏ, từng khuôn mặt quen. Những điều bình thường với người ở lại, lại là điều tôi phải cất kỹ trong ký ức, vì biết chắc một đến hai năm nữa tôi mới lại có cơ hội được nhìn thấy”.

Và rồi khi ra đến đảo, tất cả những gì anh mang theo, đó là hình ảnh vợ, con, căn nhà nhỏ, con đường làng đều là từ lần trở về trước đó. Còn thực tại, anh không biết đã thay đổi như thế nào, con có cao lớn hơn không, mái tóc vợ có bạc đi chút nào không?

Mỗi lần đài báo tin bão về, vợ anh lại lo mà gọi điện. Anh trấn an vợ, vẫn với giọng bình thản quen thuộc: “Ở đây, nếu có bão, đúng là tụi anh là người đón đầu tiên. Nhưng em đừng lo, khổ cực rồi cũng qua, giờ thì mọi thứ đã khang trang hơn rất nhiều”.

Trái tim người giữ đảo
Anh Cao Văn Giáp tặng quà lưu niệm cho tác giả

Ngồi yên lặng một lúc lâu, anh cười, nhẹ như sóng gợn: “Lắm khi tôi thấy, cuộc đời mình như cọng rau muống nước, trôi theo dòng, lúc nổi lúc chìm”. Nhưng với đảo anh đã neo lại. Anh chia sẻ với tôi về tương lai của mình: Tôi sẽ hết nhiệm kỳ này vào năm 2028, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ ở đây luôn, đến tận 2032. Đất quen người, người quen đất. Về đất liền, tôi đi xe đạp còn thành thạo hơn xe máy. Đêm nằm nghe tiếng gió lại nhớ đảo không yên”.

Thời gian tưởng dài, hóa ra chỉ là những lát cắt đứt quãng, nối liền bằng những lần trở về vội vã và những nỗi nhớ thăm thẳm khôn nguôi.

Trước khi rời đảo, anh Giáp tặng tôi một viên ngói in hình Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một kỷ vật như máu thịt với anh; một vỏ ốc biển được chế thành đèn ngủ như giấc mơ lặng lẽ vẫn bền bỉ thắp sáng giữa đêm dài và một tấm mica khắc hình cột mốc chủ quyền trên đảo như lời nhắc nhở thiêng liêng về nơi đầu sóng.

Trước khi rời đi, tôi ngoái nhìn lần nữa căn phòng làm việc của anh, cũng là nơi anh ở. Một chiếc bàn gỗ cũ, bộ ấm chén mộc mạc, vài vỏ ốc xếp ngay ngắn và góc nhỏ đặt bàn thờ người cha đã khuất. Một không gian thấm đẫm yêu thương, nghĩa tình và cả sự kiêu hãnh lặng thầm của một người giữ đảo giữa trùng khơi.

Tôi rời đảo mang theo những kỷ vật vô giá ấy cùng hình ảnh một con người đã chọn ở lại, chọn hiến dâng thầm lặng để giữ vững màu xanh Tổ quốc giữa nơi đầu sóng.

Kim Ngân

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy