Sáng tác từ Trại Viết Hội văn học nghệ thuật Trường Sơn
Người đàn bà đi dưới nắng
Chị mải miết đi như thế, dưới nắng xanh trong của trời Quảng Trị. Những mảng mây rất nhẹ, trôi trên đầu, không đủ che dáng người nhỏ bé của chị. Thi thoảng, gió từ dưới mặt nước sông Thạch Hãn hắt lên, thấy man mát ở mặt, nhưng trong lòng chị như có lửa đốt. Từ sáng đến giờ, chị đi bao nhiêu đường đất, qua bao nhiêu mom sông, vào bao nhiêu nhà, gặp gỡ bao nhiêu người, chị không nhớ. Duy nhất trong lòng chị, chỉ nhớ đến cái làng nhỏ bé, và người đàn bà đáng ghét ấy trong mơ, chưa bao giờ gặp.
Nhiều đêm thao thức, tự hỏi, tại sao mình đang ở sông Đuống, lại nghĩ đến con sông xa xăm ấy của người ta làm gì? Không lẽ, mọi duyên nợ đều gửi gắm vào vùng đất, tám mươi mốt ngày, không có đêm ở Thành cổ Quảng Trị? Từ trái tim lay động, chị muốn ôm nó vào lòng, nhưng thấy chát chúa, muốn đẩy ra. Sao lại thế? Sông nước vùng miền xa xôi ấy, có lỗi gì đâu, mà chị dằn hắt, lúc giận, lúc thương? Hay sông Đuống, lúc hiền hoà, lúc hung dữ, khiến tâm trạng chị lúc đầy, lúc vơi? Không, chị đâu phải “sáng nắng, chiều mưa”. Chị tin vào cuộc sống, vào tình yêu, coi tình yêu là thiêng liêng, vĩnh cửu. Trong hoàn cảnh hiện tại, chị biết vô vọng, nhưng trái tim mách bảo, còn tình yêu, còn hy vọng. Nhưng hy vọng về điều gì, chị cũng không biết.
Chị là thân nhân liệt sĩ, được tham gia đoàn cựu chiến binh của tỉnh, vào thăm các địa danh lịch sử, từ Bắc vào Quảng Trị. Kết thúc chuyến đi, chị xin tách Đoàn, với lý do riêng. Chiến tích năm xưa đã phai mờ, nhưng kỳ tích như Thành cổ, tượng đài Sư đoàn 325, bến thả đèn hoa ở Nhan Biều… Chị vừa đến hôm nay, nói lên tất cả. Ở khu tưởng niệm, người ta nói, khi xưa, bến đò Nhan Biều là nơi tập kết của ba cánh quân, từ phía bắc, phía tây, và phía đông hội tụ để đưa người, vũ khí qua sông Thạch Hãn vào Thành cổ.
Sang ngày thứ hai, chị mải miết đi như hôm qua. Hỏi thăm nhiều chỗ, nhiều người, nhưng không biết làng ấy ở đâu? Chị tin chắc, cứ men theo sông Thạch Hãn, thể nào cũng tìm ra. Bởi xưa kia, chiến tranh ác liệt, đều xảy ra hai bờ sông này.
Hôm nay, chị muốn dành riêng cho mình một khoảng lặng tình yêu, vừa hi vọng, vừa đau đớn. Chị khao khát muốn đến làng Giang Hến, mà xưa kia, người yêu của chị đã từng nếm trải.
Có điều rất lạ, chị đi mãi, người không thấy mệt mỏi. Không lẽ, ký ức xa xưa làm chị quên ánh nắng chói chang? Chị bật cười một mình, không biết lý giải tại sao, sông nước như nhau, mà mặn, ngọt lại khác nhau? Dòng sông và lòng người, không lẽ cũng vậy ư? Đôi khi, bần thần ngồi trên bãi cỏ, tâm trí chị như con ngựa hoang, lan man chuyện này, chuyện nọ. Đến nỗi, bẵng quên đang đi tìm cái làng đáng thương, đáng ghét ấy.
Hơn mười năm sau chiến tranh Thành cổ, Ngô Kim Quế mới trở về đất Giang Sơn, Quế Võ. Anh về, người không còn lành lặn. Không ba lô, súng ống, không dáng đi ngạo nghễ, không nụ cười xiêu đổ bao cô gái làng. Anh về trong chiếc tiểu sành, phủ kín cờ đỏ sao vàng. Chị đón anh, nước mắt chảy vào trong. Sẽ không còn, thảm cỏ ven đê xanh ngút mắt Đào Viên, sẽ không ồn ào Chợ Chì, dạo chơi trên con đường tỉnh lộ 291 ngọt ngào, hoặc ra bến phà Chì, nghe sóng nước vỗ lao xao…
Anh về, mang theo một bảo vật. Đó là chiếc chai thuỷ tinh nhỏ, trong đó có một lá thư chỉ bằng ba ngón tay. Vì thế, cơ quan chức trách, xác định được danh tính và quê quán liệt sĩ, cùng với một dòng chữ bất ngờ trên giấy, để trong chai: “Sau này sẽ lấy cô gái Giang Hến làm vợ”.
Chị tan nát lòng. Không còn thời “thanh mai trúc mã”. Chị không muốn nói ước nguyện của mình, trước khi anh lên đường nhập ngũ. Không dám ôm hôn, thậm chí không dám cầm tay, để anh vương vấn chuyện này, chuyện nọ. Nhưng trong lòng, chị quyết chí chờ đợi, yêu anh, và sẽ lấy anh làm chồng, bất kể hoàn cảnh nào.
Bỗng nhiên, anh thay lòng đổi dạ? Cô gái nào, đã làm anh gục ngã? Chị muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra với anh, nhưng dòng sông Đuống, ngày đêm, cuốn theo tâm trí rối bời của chị. Không biết làng Giang Hến ấy, có giống với làng Giang Sơn, của mình hay không? Mà sao anh lại quên đường về, dấn thân vào miền xa lạ ấy?
Năm tháng trôi qua. Năm mươi năm, kể từ ngày anh ra đi, tuổi xuân của chị chẳng còn. Mái tóc mượt mà khi xưa, nay xơ xác, lốm đốm pha sương. Bộ ngực căng tròn của chị, bây giờ, giống như một ngọn đồi san phẳng. Da dẻ không còn mơn mởn mà sạm màu nhớ nhung, day dứt. Từ khi mất anh, chị không muốn tìm hạnh phúc riêng cho mình, mặc cho tuổi xuân phôi pha. Hạnh phúc thời “thanh mai trúc mã ”với chị, thế là đủ rồi. Chị không hề giận anh. Chỉ trách, tại sao anh lại đẹp trai thế? Tại sao, anh có nụ cười mê hồn đến thế? Gặp anh, cô gái nào chẳng mê?
Đôi khi, chị ghen với người phụ nữ anh yêu. Anh nói, sau này sẽ lấy chị làm vợ. Chắc hẳn, chị ấy hạnh phúc lắm, đã cùng anh nếm trải ngọt ngào bên nhau? Nhưng rồi, chị lại thấy đớn đau thay cho người phụ nữ đó. Đã gần nửa thế kỷ, chị không biết anh, đã về với đất mẹ từ lâu. Giá như, mình gặp được chị ấy, để sẻ chia nỗi đau tột cùng này? Hay biết chừng nào. Ôi, đau đớn thay phận đàn bà thời loạn lạc chiến tranh!
Sáng ngày thứ ba, chị gặp may. Chị gặp được cụ ông, ngót nghét 80. Cụ cho hay, những người trẻ tuổi, bây giờ không mấy người biết đến làng Giang Hến. Họ thay làng, đổi tên cả rồi. Vâng, làng Giang Hến bây giờ là tiểu khu 5, hay tiểu khu 6 gì đấy, thuộc thị trấn Ái Tử.
Cụ ân cần bảo:
- Nếu cần, tôi sẽ đưa chị về Giang Hến. Ở đó, tôi quen một người phụ nữ. Thời xưa, chị là dân quân, từng chiến đấu, lăn lộn trên mảnh đất đau thương Quảng Trị. Chị ấy, tên là Hoàng Thị Hậu, người địa phương.
Thế là, chị đến được nơi mình cần đến. Chị không biết xưa kia, thị trấn này to, lớn hay nhỏ bé thế nào? Nghe đài báo nói Cồn Tiên, Dốc Miếu, Ái Tử là hàng rào điện tử Mácnamara, cũng đủ biết sự tàn phá trong chiến tranh khủng khiếp mức nào. Còn bây giờ, thị trấn Ái Tử xinh đẹp, với những con đường ngang, ngõ phố, xe cộ ngược xuôi hối hả mới thấy sức sống của vùng đất này, thay đổi đến không ngờ. Xưa kia, bến đò An Mô máu đỏ, hoà với nước sông Thạch Hãn, làm rạng danh thiên anh hùng ca. Bây giờ, cây cầu soi mình trên dòng Thạch Hãn, sừng sững, dưới bầu trời xanh trong, ngút mắt.
Chị ngập ngừng trước lối vào căn nhà ba gian lợp ngói. Ngôi nhà bình dị, khiêm tốn, trong thời đô thị phát triển chóng mặt. Thấy có người đến nhà mình, chị chủ nhà buông tay, giữa đám tre pheo đang chẻ.
- Em chào chị ạ.
Nghe giọng nói, chị chủ nhà nhận ra người Bắc, liền đon đả, đưa khách vào trong nhà. Chị le te, xuống bếp, thổi lửa đun nước, pha trà đãi khách.
Còn lại một mình, chị khách đảo mắt nhìn trong nhà quan sát, theo thói quen của người phụ nữ độc thân. Căn nhà bày biện thô sơ, có lẽ cũng giống như nhà mình. Gian hai bên, kê hai chiếc giường nhỡ. Chăn chiếu gấp, xếp gọn gàng, không có rèm che giường ngủ. Rõ ràng, chuyện “chăn xô, chiếu lệch” rất hiếm trong ngôi nhà này. Dưới sàn nhà lát gạch, bề bộn thúng mủng, các đồ đan lát mỹ nghệ. Gian giữa kê bộ bàn ghế cũ kỹ. Sát tường phía trong bàn thờ, ám hương khói đen kịt. Thấy khung ảnh bày trên bàn thờ, nhưng không có ảnh chân dung. Trên tường treo la liệt bằng khen, giấy khen của người lớn lẫn trẻ nhỏ.
Thấy chủ nhà xách phích nước lên, chị liền hỏi:
- Người nhà đi đâu hết, mà mỗi mình chị?
- Tui ở có một mình. Còn vợ chồng, con cái thằng con trai ở bên tê Thành cổ. Hắn phụ trách chi đó, ngành tham quan du lịch. Rồi chị nói thêm:
- Đừng trách tui lẩn thẩn nha, nhưng cũng cho biết, tui đang nói chuyện với ai đây?
- Dạ, thưa chị em tên là Trần Thị Giang, sáu mươi tám tuổi quê ở Quế Võ, Bắc Ninh. Em tách đoàn vào thăm Thành cổ, muốn đi thăm, tìm hiểu thêm mảnh đất yêu thương Quảng Trị, chị giúp em nhé.
- Rứa là tui hơn em hai tuổi, sinh năm 1952. Tên tui Hoàng Thị Hậu. Thôi, ta coi nhau như hai chị em, được không hề?
Chị khách cay cay ở mắt. Một giọt lệ to, tròn nơi khoé mắt, lăn dọc xuống rãnh má nhăn nheo, thấy mằn mặn ở đầu môi. Tự nhiên, trong lòng mách bảo, không lẽ người đàn bà mình ghen ghét lâu nay, đang ngồi trước mặt, bằng da, bằng thịt, chân chất, mộc mạc, đến không tưởng. Không lẽ, người mình đang tìm kiếm? Thảo nào, anh không ngần ngại, trao trái tim cho người mình yêu. Trong tâm khảm, chị không còn thấy ghen ghét nữa, mà dấy lên lòng ngưỡng mộ, đồng cảm, giữa hai người đàn bà, cùng hướng về người đàn ông, rất mực yêu thương của mình. Chị muốn đặt niềm tin, gửi gắm vào con người mới gặp gỡ này, chị khách thầm nghĩ như vậy.
Chưa kịp pha nước mời khách, dường như từ lâu, cuộc chiến trên mảnh đất đau thương của chị đang bị dồn nén, chất chứa trong lòng. Người khách này, giống như chìa khoá vàng để mở.
Năm 1972, Quảng Trị sống trong khung cảnh vừa giải phóng, được sống tự do. Chưa kịp hưởng niềm vui, thì Mỹ - Ngụy mở chiến dịch “Lam Sơn 72”, tái chiếm thị xã và Thành cổ Quảng Trị. Chúng huy động lực lượng khổng lồ, bộ binh, pháo binh, thiết đoàn, pháo hạm, không quân, kể cả máy bay B52. Trong khi ta chưa có lực lượng mạnh.
Sau này, có nhiều đơn vị chủ lực trực tiếp chiến đấu suốt 81 ngày đêm. Một cuộc chiến không cân sức em ạ. Nhưng, chiến sĩ ta quyết chiến đấu đến giây phút cuối cùng. Nghe đài báo của ta, địch đã huy động bom đạn khổng lồ, ném xuống Thành cổ, tương đương bảy quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống tỉnh chi đó ở bên Nhật năm nào. Bọn chúng thật quá tàn bạo, huỷ diệt hết, sắt thép tan chảy hết, nhưng con người Quảng Trị, vững như thành đồng!
Ở bờ bắc sông Thạch Hãn, cuộc chiến đấu rất cam go quyết liệt, không kém gì Thành cổ. Ta vừa đánh địch, vừa làm công tác vận tải, đưa súng đạn, hậu cần, bộ đội sang Thành cổ chiến đấu. Đưa thương binh, tử sĩ về tuyến sau. Những gì xảy ra ở đây, tui đều biết hết, bởi tui cũng là chiến sĩ, chiến đấu ngay chính trên quê hương của mình.
Tuyến vận tải đường sông, do Tiểu đoàn 166 đảm nhiệm từ Mai Xá, hạ lưu theo tuyến đường sông. Đưa người, vũ khí lên Nhan Biều và chở thương binh, tử sĩ xuôi dòng. Ở thượng lưu sông Thạch Hãn, tuyến vận tải Triệu Giang xuôi về Nhan Biều do Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B, đảm nhiệm.
Tuyến giữa, từ Triệu Thượng xuống Nhan Biều, do Sư đoàn 325 đảm nhiệm. Nhiệm vụ của Sư đoàn hết sức nặng nề, ngày đêm chiến đấu quyết liệt, gom từng cân hàng, chuyển sang mặt trận. Ngang với từng cân máu, đổ xuống sông Thạch Hãn. Người ta xây tượng đài Sư đoàn 325, cũng vì thế em ạ.
Nhà chị có con đò của cha mẹ để lại, thường ngày vẫn chèo chống, đưa khách sang sông ở An Mô. Ngay từ đầu tháng 7, chị đã đưa con đò tham gia chiến dịch, trực tiếp lái đò, chuyển vũ khí lên Nhan Biều. Đêm đến, gặp được con nước, là “xuôi chèo mát mái”. Những hôm nước ròng, phải chèo ngược nước, vất vả lắm. Không chỉ vậy, gặp pháo bầy từ biển bắn vào, máy bay từ trên trời bắn xuống, pháo bờ Nam bắn sang. Thậm chí có hôm lính bộ binh của địch rình rập đón lõng. Nếu không khoẻ tay chèo, vững tay lái, cuộc chiến này tổn thất lớn lắm, e là không thành công. Cuối cùng, ta trụ được. Cha mẹ chị, cùng hơn tám vạn dân đã được sơ tán. Chị ở lại bám trụ, nhà cửa bị địch đánh phá tan nát hết. Căn nhà nầy, khi xưa là hào giao thông và hầm trú ẩn. Ăn ở sinh hoạt, đều dưới hầm cả. Con đò duy nhất của gia đình, ban ngày dìm dưới nước. Ban đêm lôi lên bờ, tát hết nước, rồi xếp hàng hoá, đưa bộ đội sang bên Thành chiến đấu.
Từ cuối tháng 7, địch lùng sục, xăm nát hai bờ sông. Các phương tiện xuồng máy, thuyền gỗ bị phá huỷ hết. Vượt sông, ta phải dùng đến bè mảng, phao cao su, túi ni lông buộc chặt, đựng súng, lương thực, điện đài sang bên kia. Tình thế rất khó khăn. Hơn nữa, miền trung đang vào mùa mưa, nước tràn ngập thị xã và Thành cổ. Ta vừa chống giặc, vừa chống mưa lũ. Rét mướt, thiếu ăn, thương vong, bệnh tật. Cùng lúc, ta bị vỡ phòng tuyến vòng ngoài, tình hình rất nguy khốn. Trước tình hình ấy, vào lúc 18 giờ ngày 16 tháng 9 năm đó, cấp trên ra lệnh rút lui khỏi Thành cổ, đưa các đơn vị bộ đội sang bờ bắc sông Thạch Hãn. Cuộc rút lui không có phương tiện cần thiết, bộ đội ta tổn thất nặng nề. Không gì bù đắp nổi. Hàng trăm chiến sĩ, sức khoẻ đã suy kiệt trong chiến đấu, bây giờ vượt sông, phải vật lộn với mưa lũ. Không còn sức, đành phó thác mạng sống cho dòng sông oan nghiệt.
Chị Hậu muốn giải toả tâm trạng, kể hết chuyện này, sang chuyện khác. Không để ý đến cô em ngồi trước mặt mình, hai ống tay áo đã ướt đầm nước mắt.
Bỗng có tiếng xe máy ngoài sân đột ngột vang lên, một người đàn ông bước xuống. Chị khách quay mặt ra sân, vừa hay người đàn ông bước tới cửa. Chị thét lên:
- Ôi ! Anh Ngô Kim Quế!
Kêu xong, chị ngất lịm trong vòng tay của chị chủ nhà. Sau khi được bôi dầu tràm, cạo gió, chị tỉnh lại. Người đàn ông lúc nãy biến mất, khiến chị ngơ ngác tìm quanh. Chị Hậu biết ý, bảo cô em:
- Hắn chạy ra Ái Tử mua thuốc và các thứ về cho em rồi. Tại sao em lại giật mình, ngất đi khi thấy thằng con trai tui?
- Chị ơi ! Em cứ nghĩ đó là anh Ngô Kim Quế.
- Thì nhiều người trong thiên hạ cũng giống nhau như vậy mà em.
- Anh ấy mất đã năm mươi năm rồi, bỗng dưng trời quang mây tạnh thế này, anh ấy lại hiện về. Tại sao con trai chị lại giống anh ấy quá.
- Anh ấy có cái tên đẹp quá hề, là chồng của em à?
- Không chị ạ, chúng em là bạn thời còn trẻ. Anh đi bộ đội năm mười tám tuổi, và hi sinh cùng năm ấy ở mặt trận Thành cổ. Hai người chưa kịp nhắn nhe, yêu đương gì, nhưng em hứa sẽ yêu anh ấy trọn đời.
- Em thật là kỳ, xinh đẹp như em khối người mê, tại sao lại không…?
- Em không biết tại sao lại thế. Với lại, anh ấy nhắn, sau này sẽ lấy cô gái Giang Hến làm vợ. Nhiều năm rồi, em cũng muốn biết cô gái ấy là ai. Vì vậy, em mới có dịp đi chuyến này.
- Thế em đã gặp người phụ nữ đó chưa?
- Chưa chị ạ. Hôm nay, lần đầu tiên em mới đến Giang Hến, được vào nhà chị. Chị ơi, cho em hỏi anh đi đâu mà chị ở một mình?
- Chuyện của tui như ri. Hai mươi hai tuổi tui có thằng con trai nớ. Tui không nhớ tên, quê quán, thậm chí cũng không biết mặt cha hắn nữa. Trên bàn thờ, tui để khung ảnh mà không có ảnh thờ, cũng vì không biết anh còn sống hay chết. Năm mươi năm rồi, tui chờ đợi hoài, không thấy ảnh trở về. Tui đoán ảnh mất trong chiến dịch Thành cổ, người ta không xác định được danh tính, cũng không tìm được hài cốt chôn ở mô. Em cũng biết đấy, khi tui chở tử sĩ về, thì nhiều người đã bốc mùi, buộc chặt trong ni lông hoặc chăn màn, không ai dám mở ra. Trên dọc sông, nếu địch đánh rát quá, ghé được vào bờ huy động dân quân chôn lấp ngay. Vì vậy, nhiều người mất tích không thấy hài cốt, cũng vì lý do đó. Không chừng, cha thằng Hoàng Trung Thành cũng nằm trong số ấy?
- Tại sao, chị lại không biết mặt anh ấy?
- Chuyện là…
Gương mặt chị buồn thảm, già nua. Nước mắt đọng lại trên lớp da nhăn nheo. Giọng chị không còn thanh thoát như lúc nãy, mà nghẹn ngào, đứt quãng.
Vào giữa tháng 7 địch đánh rát, chiếc đò của tui bị chúng bắn phá hỏng. Không còn đò, tui lên bờ làm các việc khác. Thay thuyền gỗ, thuyền máy, phải đóng bè, mảng bằng ván cửa, cột nhà, liên kết thân cây chuối, hoặc đóng buộc ni lông cho bộ đội vượt sông.
Chập tối, tui đang lúi húi sửa lại cửa hầm, xuất hiện một anh bộ đội. Anh đứng trân trân, lặng ngắt, không nói gì. Tui buột mồm hỏi:
- Anh cần chi mà không lên tiếng.
- Chị ơi, tiểu đội em có mười người. Hôm nay vượt sông, hẹn gặp nhau ở bên ấy. Không dám đi đông, đành chia nhỏ ra. Mỗi người đều sơ tán về các hầm cả rồi, chờ đến giờ xuất phát, còn em…
Nghe giọng còn trẻ, tui liền đổi cách xưng hô:
- Cậu cứ chui vô hầm ngủ, chờ đến giờ xuất phát, tui gọi dậy.
- Nhưng trong hầm… chỉ có mỗi mình chị.
Tui nghĩ ngay, cậu ta ngần ngại vì lẽ đó, còn trẻ mà…
- Không việc chi mô, hầm còn rộng lắm - Tui nói vậy cho cậu yên tâm, thực ra vào hầm phải chui lom khom, một người nằm thì rộng, hai người hơi chật, nhưng không thể người ở trong, người ở ngoài vì bom đạn nổ rần rần.
Cậu để ba lô và súng ở cửa hầm rồi chui vào nằm một bên, như thể phần còn lại dành cho tui.
Tôi hỏi để lấy lại tự nhiên, vì thấy cậu hai hàm răng run lập cập.
- Em năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Dạ, mười tám ạ.
- Tui hai mươi, thế là chị hơn em hai tuổi nha.
Cậu ta nói như cướp lời tui, ra vẻ tự tin lắm.
- Em nhập ngũ dịp hè vừa rồi. Ba tháng huấn luyện, được bổ sung vào đây. Tiểu đội trưởng bảo, cả tiểu đội sẽ bổ sung vào đơn vị mới, trực tiếp chiến đấu.
- Em đã có người yêu chưa.
- Chưa chị ạ. Chúng em chơi với nhau từ thời để chỏm, cùng tuổi mà. Trong thâm tâm, sau này sẽ lấy nhau. Còn bây giờ chưa có gì cả, thậm chí chưa dám cầm tay, chứ chưa nói tới chạm vào người cô ấy, để biết mùi mẫm phụ nữ ra sao.
- Thật tội cho em quá, ngày mai em vào trận rồi, chị thương em lắm.
Tui chưa kịp hỏi họ tên, quê quán cậu ấy ở mô, thì bất ngờ loạt đạn pháo bên bờ nam bắn sang rầm rầm. Tên tuổi, quê quán tui nghe không rõ. Cậu run người như lên cơn rét.
- Em sợ lắm chị ạ, không biết ngày mai vào trận, sống chết ra sao?
Tui vỗ về:
- Em đừng sợ, vào trận ai cũng sợ, nhưng rồi súng đạn quen dần. Giữa sống và chết, ai cũng muốn cái sống về mình, vì thế thành chai sạn, vững tin.
- Còn chị, chị có sợ không?
- Có, ban đầu thì sợ, sau đó quen đi không sợ nữa. Chị làm việc độc lập một mình trên thuyền, đàn ông hiếm lắm, họ đi đánh trận hết. Vì thế, chị chưa từng yêu ai. Năm nay, chị đã hai mươi tuổi rồi. Nếu chết, tiếc nuối lắm, vì chưa có người đàn ông nào chạm vào người chị.
- Em cũng thương chị lắm.
Tui nằm sát cậu ấy. Căn hầm chật, nhưng cũng đủ cho hai người ép sát vào nhau. Mùi thơm da thịt đàn ông và đàn bà lan toả, khiến đêm đen trở nên huyền bí, gợi cảm. Bỗng thấy cậu ấy nói, giọng run run, đứt quãng:
- Chị ơi! Ngày mai em vào trận rồi, cho em nắm tay chị được không?
- Được em ạ.
Cậu ấy sờ soạng trong bóng tối, nắm chặt tay tui, vò tay tui vào trong lòng bàn tay cậu ấy. Thật bất ngờ, cậu ghé môi vào hôn đắm đuối. Tui muốn rút tay về, nhưng lòng lại không muốn. Ngược lại, người tui rạo rực, như bốc lửa. Hàng cúc áo, tự nhiên bật ra vì bộ ngực của tui tròn đầy, căng lắm. Tui cầm tay cậu ấy, ấn vào bầu vú trinh tiết của mình. Cảm giác của tui thật lạ, sự ham muốn dâng lên tột cùng. Tự nhiên, tui bỗng bật ra lời, tưởng không phải từ miệng mình phát ra:
- Anh, em yêu anh, thân thể này là của anh. Em hiến dâng cho anh tất cả… Ngày mai, nếu hai người có ngã xuống, đêm nay chúng mình đã thành vợ chồng rồi.
Chưa nói hết lời, anh bịt miệng tui bằng một cái hun nghẹt thở, đến tận bây giờ tui còn thấy nóng bỏng. Anh không còn dè dặt như lúc đầu mới đến, mà chủ động ôm chặt lấy tui, đặt tay vào khắp cơ thể tui, thành thạo như một người trưởng thành. Tui như điên dại, cuồng nhiệt, rồi mê man trong ân ái. Quên hết hiện tại, không còn nghe pháo bờ Nam xối xả bắn sang.
Lúc đạn pháo thưa dần, tui đưa anh ra bờ sông. Khi bọc ni lông thả xuống nước, anh thận trọng túm lấy dây buộc, rồi nhẹ nhàng bơi đi. Những hạt lân tinh dưới mặt nước lóe sáng, bọc lấy anh thành một vòng tròn. Cái vòng tròn ấy trôi đi, chìm dần trong bóng tối…
Chị thở nhẹ, rồi lặng người như lả đi. Cảm giác vừa trải qua một cuộc tình dữ dội, chóng đến, chóng đi. Hai chị em ôm nhau, oà khóc.
- Ôi, chị đúng là vợ của anh ấy rồi và con của anh ấy nữa…? Em mừng cho chị lắm.
Chị nói trong nước mắt, vừa đau đớn, vừa hạnh phúc tràn trề:
- Ừ, đúng đó em. Sau chiến dịch Thành cổ, chị mang bầu được gần hai tháng. Chị sung sướng, hạnh phúc lắm. Đang chiến tranh, lại có một sinh linh bé nhỏ chuẩn bị ra đời. Chị tự hứa, sẽ nuôi dạy con nên người. Nó sẽ là người lính trong tương lai, nếu đất nước này còn chiến tranh. Sinh con xong, chị lấy họ mình đặt tên họ cho con, rồi năm tháng đợi chờ. Chị không đi lấy chồng, vì khắc khoải lời hứa của anh “đánh xong Thành cổ, anh về cưới em”.
- Chị ơi, không lẽ anh Quế là cha của thằng Thành nhà mình? Hai người giống nhau như hai giọt nước, chị nghĩ sao?
- Ngoài điều em nói hai người giống nhau, em còn bằng chứng nào nữa không?
- Có chị ạ, trước khi chia tay anh để lại cho em một tấm hình mặc quân phục, khi mới nhập ngũ. Đây, chị xem đi.
Chị chăm chú nhìn tấm ảnh 4x6 đã ngả màu vàng, rồi đỏ mặt, thẹn thùng.
- Không lẽ bây giờ, tui mới biết mặt người yêu? Hôm đó, trong bóng tối, tui sờ mặt anh, biết anh đẹp trai. Ừ đúng thật, thằng Thành lúc còn lứa tuổi thanh niên, giống y chang người trong bức ảnh này.
- Còn nữa chị ạ, trong chai thủy tinh có một lá thư nhỏ, viết rõ địa chỉ, danh tính của mình, thêm một dòng chữ ngắn gọn “sau này sẽ lấy cô gái Giang Hến làm vợ”. Em nghĩ, chắc chắn là chị rồi. Em mừng cho chị, nhưng cũng ghen với chị. Cô gái Giang Hến là chị thiệt rồi.
Giang nhoài người với lấy túi vải để trên chiếc ghế cũ kỹ, cẩn trọng mở từng lớp bọc giấy, lộ ra một chai thuỷ tinh. Chiếc chai nhỏ này để trong bọc hài cốt của Ngô Kim Quế.
Chị Hậu nhìn thấy chai thủy tinh, mặt tái mét, chăm chăm nhìn chai dầu tràm đã cạn, nhận ra nó là của mình, vì một góc do chị làm sứt. Năm mươi năm trước, sau khi hai người mặn mà hạnh phúc, chị trao cho anh chai dầu tràm, để dùng khi trái gió trở trời. Không ngờ bảo vật anh gửi gắm thông tin vào đó, đề phòng bất trắc. Bây giờ, chị chắc chắn đúng là anh ấy rồi, òa khóc đến nỗi ngất lịm từ trên ghế lăn xuống sàn nhà. Cô em ôm lấy chị, rối rít lay gọi mãi.
Nghe tiếng xe máy, chị choàng tỉnh, ngồi dậy nhìn ra ngoài sân, biết con trai đã về, liền kêu to:
- Con ơi, mẹ tìm được cha cho con rồi. Còn nữa, đây cũng là mẹ của con. Cha con Ngô Kim Quế. Con không còn là họ Hoàng nữa, mà dòng giống họ Ngô - Ngô Kim Thành.
Căn nhà ba gian vốn yên tĩnh lâu nay trong tiểu khu, bỗng dưng ồn ã tiếng khóc của hai người đàn bà và một người đàn ông trung niên. Tiếng khóc không còn ai oán, đau xót nữa mà tận đáy lòng dấy lên niềm sung sướng, hạnh phúc. Những vật phẩm Thành ra chợ Ái Tử mua về đãi khách, được bày lên hương án, làm lễ rước vong linh hương hồn Ngô Kim Quế trở về với tổ tiên, ông bà, vợ con. Khung ảnh để trống lâu nay trên bàn thờ, được gắn tấm ảnh nhỏ của anh lính trẻ năm mươi năm về trước. Hai người đàn bà trở thành vợ chính thức của anh vì họ đã ngầm hiểu nhau sẽ về quê chồng tổ chức làm đám cưới nay mai.
Sáng hôm sau, hai bà vợ cùng đám con cháu, tạm biệt làng Giang Hến về Giang Sơn quê cha, đất tổ. Sợi nắng trên Thành cổ rung rinh dài theo mãi đoàn người, đang ngập tràn hạnh phúc.
Hồ Bá Thược
0 đã tặng
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Hằng hang****@htu.edu.vn
Thật xúc động. Viết về chiến tranh luôn làm mình không kìm nén được cảm xúc. Đâu đó nơi Cồn Tiên, Dốc Miếu cũng là nơi Cha mình từng chiến đấu anh dũng một thời. Giờ ông đã đi xa, về với đồng đội nơi miền mây trắng.