Nét độc đáo tên gọi các địa danh của người Tày huyện Võ Nhai
Các làng bản cổ xưa của người Tày ở các xã phía Bắc huyện Võ Nhai được hình thành trong quá trình định cư, định canh từ rất lâu đời. Mỗi tên xóm bản của người Tày có những tên gọi khác nhau, thường mang những tiền tố như: Nà, Khuổi, Lũng, Bản… hay những yếu tố Hán Việt trong đó. Qua những tên gọi này, chúng ta thấy ẩn chứa trong đó nhiều thông tin còn được bảo lưu đến ngày nay, gắn liền với đặc điểm, vị trí địa lý, đời sống văn hoá tinh thần và hoạt động sản xuất vật chất của đồng bào.
Ở huyện Võ Nhai, người Tày sinh sống tập trung đông nhất ở các xã phía Bắc của huyện, bao gồm các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc, Vũ Chấn, Thượng Nung, Thần Sa, Cúc Đường, Phú Thượng.
Trong tên gọi của mỗi xóm bản có gắn với các tiền tố “Nà” hoặc “Na”; “Khuổi”; “Lũng”;“Bản”và những tên xóm bản có yếu tố Hán Việt. Có những tên đã có từ rất lâu đời gắn với lịch sử định cư rất sớm của người Tày nơi đây, nhưng cũng có những tên mới xuất hiện cách nay vài chục năm trở lại đây.
Theo Từ điển tiếng Việt, bản là “đơn vị dân cư nhỏ nhất ở một số vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam, nó tương đương với làng”. Mỗi bản lại có một tên gọi, nguồn gốc và ý nghĩa rất khác nhau. Các bản của người Tày ở huyện Võ Nhai cũng giống như các làng của người Kinh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, rất phong phú về hệ thống tên gọi. Chỉ tìm hiểu về một tên gọi của một xóm, bản nhất định ta cũng có thể hiểu được rất nhiều vấn đề như: Lịch sử, quá trình hình thành của xóm, bản, điều kiện địa lý tự nhiên, nghề nghiệp, quan niệm, phong tục...
Như vậy có thể nói, tên gọi của mỗi bản hay một khu vực địa lý là chiếc chìa khoá đầu tiên để mở ra cánh cửa tìm hiểu tất cả sự phong phú đa dạng của văn hoá tinh thần cũng như đời sống kinh tế vật chất của xóm, bản đó cũng như của một vùng văn hoá hay một khu vực địa lý. Bản thân những tên gọi mang trong mình nó rất nhiều ý nghĩa hay mang tính thông báo một số thông tin nhất định.
Trong bài viết này chúng tôi đề cập tới một số tiền tố của tên gọi của xóm bản, xuất phát từ tiếng Tày, những tên xóm, tên bản từ lâu đời thường là những vùng đất chỉ có người Tày cư trú hoặc đa số là người Tày, phần lớn mang những tiền tố như: Nà, Khuổi, Lũng, Bản… hay những yếu tố Hán Việt trong tên gọi của mỗi xóm, bản người Tày ở phía Bắc của huyện Võ Nhai.
Tiền tố “Nà”: theo tiếng Tày, “Nà” có nghĩa là ruộng, đồng. Thực tế theo tiếng Tày. Tiền tố “Nà” hay Tiền tố “Na” đều chung là ruộng đồng. Trong đó, tên gọi mang tiền tố “Nà” hay “Na” xuất hiện nhiều nhất ở các xã như Na Hấu, Nà Giàm; Nà Lẹng (xã Nghinh Tường). Nà Ca; Nà Lay (xã Sảng Mộc). Na Mấy; Na Rang; Na Đồng; Na Cà (xã Vũ Chấn). Nà Pheo; Na Phài; Nà Kháo (xã Phú Thượng)… Điều này cho ta thấy, cuộc sống của đồng bào nơi đây gắn với đồng ruộng. Do có lịch sử định cư khá lâu đời và thường cư trú ở những vùng thấp, thung lũng khá bằng phẳng, gần nguồn nước nên người Tày đã biết canh tác lúa nước từ rất sớm.
Đồng bào nơi đây ít làm nương rẫy do địa hình chủ yếu là núi đá vôi hiểm trở, nguồn lâm sản thì ngày càng cạn kiệt do rừng ngày càng ít đi, nên nguồn sống chính của họ từ xưa đến nay vẫn là từ cây lúa nước. Vì vậy, truyền thống trọng nông từ xưa đã tồn tại trong cộng đồng Tày. Kinh nghiệm sản xuất của họ cũng khá cao do quá trình đúc rút kinh nghiệm lâu dài. Từ truyền thống trọng nông nghiệp, đặc biệt là canh tác lúa nước như vậy mà những tên gọi của các bản Tày mang tiến tố “Nà” đã ra đời một cách rất tự nhiên và với tần xuất lớn ở khu vực này. Những tên gọi mang tiền tố “Nà” thường là những tên gọi cổ xưa nhất còn được bảo lưu đến ngày nay. Trong những bản đó, kể cả các cụ cao niên nhất cũng không nhớ nổi rằng tên gọi của bản mình có từ đời nào, chỉ biết rằng nghe nó thật thân thuộc như vốn nó đã tồn tại. Những tên gọi đó thật đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, gần gũi với đời sống sinh hoạt của đồng bào.
Ở xã Vũ Chấn có 4 bản có tên gọi mang tiền tố “Nà” đọc chệch là “Na” như xóm Na Mấy, Na Rang, Na Đồng, Na Cà, chúng đều nằm dọc cánh đồng hẹp bên cạnh con suối Luông. Na Mấy có thể được đọc chệch của từ “Nà Vầy - ruộng cháy”. Theo người dân trong bản, nhất là các cụ cao niên nghe truyền lại thì họ cũng không biết tên gọi đó có từ bao giờ, mà chỉ nghe truyền lại ở khu vực đó đã từng xảy ra hỏa hoạn làm cháy những ruộng lúa và những ngôi nhà sàn lợp lá. Hay như bản Na Rang, có thể được đọc chệch của từ “Nà Chang” trong tiếng Tày, sở dĩ có tên gọi đó là vì khu vực này được coi là “ruộng ở giữa”. Bản này ngày nay là trung tâm của xã Vũ Chấn. Cũng với quy luật đặt tên đó, xã Nghinh Tường có bản Nà Hấu (ruộng tốt) vì bản này có nhiều chân ruộng tốt rất thuận lợi cho cây lúa nước phát triển...
Như vậy, tên gọi mang tiền tố “Nà” gắn liền với ruộng đồng của dân tộc Tày đã ra đời từ rất sớm, có thể nói các địa danh này ra đời ngay từ lúc người Tày biết sống định canh, định cư và biết canh tác ruộng lúa nước. Những tên gọi tuy đơn giản, không mang tính khái quát và trừu tượng nhưng đầy ý nghĩa. Vì vậy, nó có sức sống dai dẳng và tồn tại đến tận ngày nay. Đó là một trong những nét đẹp đặc trưng của đồng bào Tày nơi đây và cho thấy những người Tày tha thiết yêu những ruộng lúa, những cánh đồng và nghề nông truyền thống của họ.
Tiền tố “Khuổi”: theo tiếng Tày “Khuổi” có nghĩa là suối, gắn liền với nguồn nước. Chúng ta đã biết đồng bào Tày thường chọn địa điểm cư trú, sản xuất gần những nguồn nước, nhất như các khe núi, suối, sông... để vừa thuận tiện cho sinh hoạt vừa thuận lợi cho canh tác lúa nước. Từ đó, những tên gọi mang tiến tố “Khuổi” cũng ra đời. Trải qua thời gian những tên gọi đó ăn sâu vào tiềm thức của họ và được truyền từ thế hệ này qua thế qua thế hệ khác. Những nguồn nước đó theo thời gian có thể thay đổi nhưng những tên gọi đó thì vẫn còn mãi. Các bản người Tày ở Võ Nhai, hầu hết được tập trung ở những nơi có nguồn nước, các dòng suối lớn, nhỏ. Con sông Nghinh Tường (một nhánh quan trọng của sông Cầu) chảy qua hầu hết các xã phía Bắc của huyện. Dọc hai bờ sông là những xóm, bản người Tày khá đông đúc.
Ở xã Sảng Mộc, chúng ta thấy có những tên bản như: Khuổi Mèo, Khuổi Chạo, Khuổi Uốn… Điều này cho thấy, nguồn nước có ý nghĩa hết sức quan trọng với đời sống cũng như hoạt động sản xuất của đồng bào. Không chỉ riêng dân tộc Tày, ở Võ Nhai dân tộc Dao cũng có thói quen đặt tên khu vực cư trú của họ gắn liền với nguồn nước ở các khe suối như: Khe Rạc, Khe Rịa, Khe Cái (xã Vũ Chấn). Tác giả Nguyễn Văn Âu trong cuốn “Địa danh Việt Nam” đã nêu: “Các địa danh sông ngòi thường rất cổ và sông ngòi là những đối tượng địa lý gắn liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân trong quá trình sản xuất cũng như sinh hoạt, trong suốt thời gian lịch sử lâu dài của dân tộc, các địa danh này cũng lại được bảo lưu khá bền vững, ít bị thay đổi do các biến động của xã hội”.
Tiền tố “Lũng”: Có nghĩa là “thung lũng”, ta cũng thấy xuất hiện một số tên bản tại xã Thượng Nung như: Lũng Hoài hay Vài (thung lũng trâu); Lũng Cà (thung lũng cỏ tranh); Lũng Luông (thung lũng lớn). Với vùng núi đá vôi hiểm trở như Võ Nhai, nơi định cư và canh tác của đồng bào Tày thường là ở những thung lũng khá bằng phẳng, được che chở bao quanh là những dãy núi đất, núi đá để tránh gió và giông bão. Ở những nơi đó, đồng bào thường làm nhà tựa lưng vào núi, hướng nhà thường nhìn ra những cánh đồng ruộng bậc thang và sông, suối... Vì thế tên gọi mang tiền tố “ lũng” ra đời cũng dễ giải thích.
Tiền tố “Bản”: Những tên gọi này thường phản ánh đặc trưng nơi cư trú của đồng bào Tày như: vị trí địa lý, địa hình, phong tục tập quán... Ở xã Nghinh Tường có Bản Nhàu, Bản Trang, Bản Nưa, Bản Rãi, Bản Cái. Ở xã Sảng Mộc có Bản Chương; Bản Chấu… Cùng với những tên gọi mang các tiền tố đã nêu trên, những tên gọi mang tiền tố “Bản” cũng đã có từ lâu đời, gắn bó với quá trình đấu tranh với thiên nhiên, định cư và phát triển của đồng bào. Những tên gọi bản không phổ biến ta cũng thấy khá nhiều ở vùng dân tộc Tày ở huyện Võ Nhai, điển hình và có từ lâu đời nhất là những tên bản như Bản Cúc, Bản Nhò (xã Cúc Đường)...
Những tên gọi này theo các cụ cao niên ở địa phương thì có nguồn gốc khác nhau, đôi khi khá thú vị. Ví dụ: Bản Cúc, Bản Nhò là bản Tày gốc lâu đời nhất tại xã Cúc Đường gắn với tên đình Cúc nổi tiếng một thời gian dài. Sau này khi có sự di cư của người Mông, người Kinh đến đây cộng với sự gia tăng dân số đã dẫn đến sự chia tách và xác lập thêm những xóm bản mới, những tên cổ như Bản Cúc, Bản Nhò không còn nữa. Ở xã Phú Thượng có một địa danh nổi tiếng nữa là Mỏ Gà (suối Mỏ Gà, đình Mỏ Gà và xóm Mỏ Gà). Tên Mỏ Gà ra đời một cách khá hy hữu, nhân dân nơi đây truyền nhau rằng từ xa xưa lắm rồi có một trận mưa rất lớn và một trận lũ lịch sử đã xảy ra. Tại một miệng hang của khe đá nơi nước lũ tuôn ra ào ào và có trôi ra theo rất nhiều lồng gà không biết nguồn gốc từ đâu? Địa danh Mỏ Gà xuất hiện từ đó và tồn tại đến tận ngày nay.
Yếu tố “Hán Việt” trong tên gọi xóm, bản: Ngày nay ở Võ Nhai, những xóm bản Tày còn mang rất nhiều tên mới, thường những tên này có yếu tố Hán Việt như xóm Trường Sơn, Lam Sơn, Bình Sơn, Trung Sơn, Kim Sơn, Xuyên Sơn, Ngọc Sơn (xã Thần Sa). Xóm Tân Thành, Trung Thành, Lục Thành, An Thành (xã Thượng Nung)… Đây đều là những tên gọi mới xuất hiện cách nay chỉ khoảng vài chục năm. Ví dụ như : Xóm “ Hạ Sơn” trong yếu tố Hán Việt có nghĩa là “xuống núi, đi xuống núi, rời bỏ vùng núi”. Ở đây từ “Hạ” có nghĩa là từ trên cao xuống thấp. Xã Thần Sa có bản Hạ Sơn Tày, Hạ Sơn Dao cũng mang yếu tố Hán Việt, tuy nhiên Hạ Sơn Tày, Hạ Sơn Dao còn liên quan đến mỗi tộc người Tày hoặc Dao di cư từ vùng đất cao xuống vùng đất thấp để sinh sống, định canh riêng biệt ở mỗi vùng đất đó. Những bản Tày gốc do sự phát triển dân số, chia tách bản, sự di cư của các dân tộc khác mới đến thường không duy trì được những tên cũ, đã buộc chính quyền địa phương phải chia tách, thành lập các bản mơi nhằm thuận lợi cho công tác quản lý hành chính. Có thể nói, những tên mới này mang tính “hiện đại” và trừu tượng hóa hơn nhưng thường nó vẫn xuất phát từ cách đặt tên gắn liền với địa lý, điều kiện tự nhiên của xóm bản đó.
Như vậy, qua việc tìm hiểu dù chỉ ở mức độ sơ lược những tiền tố và yếu tố Hán Việt trong tên gọi của các bản người Tày huyện Võ Nhai, chúng ta thấy ẩn chứa trong đó những vấn đề rất đáng quan tâm, có ý nghĩa trong việc nghiên cứu tổng quát thiết chế của làng bản người Tày kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Mỗi tiền tố, mỗi tên bản, tên làng đều gắn liền với tình yêu của cư dân Tày đối với địa vực cư trú của họ, nó được thể hiện ngay trong cách đặt tên nhưng tên làng, tên bản, dù đơn giản nhưng trong đó là cả sự gửi gắm và một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Mỗi tên gọi của bản, làng phần lớn đã có từ rất lâu đời, có tính bảo lưu rõ rệt, chúng đã thân thiết và trở nên gần gũi với họ trong cuộc sống. Đó là một nét đẹp của văn hóa tộc người Tày, góp phần làm phong phú, đa dạng và giàu bản sắc trong kho tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Hoàng Yến
1 đã tặng
0
1
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...