Thứ hai, ngày 25 tháng 11 năm 2024
05:55 (GMT +7)

Hắc Kim Ô – Truyện ngắn. Hà Phạm Phú

VNTN - I

Ngày nọ, trên gác cao của một tửu quán ở kinh thành tụ họp năm vị Chưởng môn của năm đại môn phái nước Vô Thường.

Chưởng môn phái Tây Côn Sơn, hậu duệ chín đời của sư tổ Nhất Thành Minh, Trúc Măng đạo sĩ kể một câu chuyện mà bốn vị Chưởng môn của các môn phái khác chưa hề nghe.

Mở đầu, Trúc Măng đạo sĩ nói, chư vị hẳn còn nhớ sư tổ Nhất Thành Minh của bổn phái mất tích ở Tây Côn Sơn trong cuộc đại chiến đẫm máu, dẫn đến sự chia năm xẻ bẩy của giang hồ. Đó là một đại họa khủng khiếp nhất trong những đại họa của võ lâm nước Vô Thường. Các Chưởng môn đồng thanh nói, còn nhớ. Chưởng môn phái Tây Côn Sơn, Trúc Măng đạo sĩ nói tiếp, lúc đó giang hồ mải tranh giành ngôi bá chủ, không biết được bí mật sau. Thất bại như một cơn đại hồng thủy đã cuốn phăng sự nghiệp trải bao năm dày công xây dựng, nhưng thất bại cũng phá vỡ luôn bức tường thành kiêu ngạo vô hình giam hãm lương tri chừng bấy năm, khiến sư tổ bổn môn tỉnh ngộ. Người cầm chiếc ống trúc đựng chè bị kiếm khí phất đứt một nửa, đi tìm người con gái được chùa Thiên Phúc Tự nuôi. Rồi hai người rời xa chốn nhân thế hỗn mang, vào sâu trong trùng điệp cổ thụ chè miền non cao Thiên Thủy. Ở đấy sư tổ bổn môn Nhất Thành Minh lại gặp đại họa, người con gái nhất mực yêu người, quyết sinh cho người một đứa con trai nối dõi, đã chết trong quá trình sinh đẻ. Đứa trẻ, giọt máu của sư tổ bổn môn cũng chết theo mẹ.

Có còn gì thất vọng hơn. Nhưng trong đêm tối thất vọng, lương tri lại lóe sáng, sư tổ bổn môn tìm đến hang Khởi Thủy, khai thác quặng sắt, luyện một thanh kiếm truyền đời. Thanh kiếm là một linh vật, có linh tính, hiểu được lòng người, vì thế sư tổ Nhất Thành Minh đã đem toàn bộ kiếm phổ đệ nhất thiên hạ, phổ hết vào kiếm. Nếu ở trong tay cao thủ võ lâm, thanh kiếm sẽ nặng ngàn cân, chém sắt như bùn, nếu ở trong tay người có chính nghĩa thanh kiếm sẽ sáng rực như vầng kim ô, nếu ở trong tay kẻ tà tâm, thanh kiếm sẽ sám sịt như đêm tối. Vì thế mới mệnh danh là Hắc Kim Ô. Có một điều này, chư vị Chưởng môn nên biết, nếu lọt vào tay người tầm thường thì nó chỉ là một thanh kiếm cùn.

Các vị Chưởng môn vận nội công, chú tâm nghe như nuốt lấy từng lời. Sao phải vận nội công? Ấy là vì khi kể, Trúc Măng đạo sĩ đã ngầm vận ba thành công lực, phổ vào từng lời nói, vì thế mỗi lời bay ra sắc nhọn như một mũi tên nhằm thử thách công lực của các vị chưởng môn. Có một điều ngoài ý muốn của Trúc Măng đạo sĩ, khi mũi tên đã bay đi, qua không gian tác động vào các vị Chưởng môn thì chúng đã tự trở thành những mũi tên độc. Các vị Chưởng nghe kể, dần có cảm giác rơi vào một xoáy nước, không thể thoát ra. Chưởng môn phái Đông Côn Sơn có phép thiên cân trụy, đứng vững trong vòng xoáy, hỏi là hậu duệ chín đời làm sao Chưởng môn biết được điều này.

Chưởng môn Trúc Măng đạo sĩ cười ha hả nói, Đông Côn Sơn Chưởng môn thật hơn người. Đấy là do duyên. Mới đây, những kẻ đứng đầu triều đình cai trị nước Vô Thường tham lam, bắt chúng dân khai phá đất đai, đào bới tìm tài nguyên, cung phụng tiền bạc, dựng nơi ăn chơi, đã mở đường lên hang Khởi Thủy, xây hành cung nguy nga tráng lệ, đổi tên là Tiên Thiên. Trong đám những thảo dân khai phá mở đường có không ít là đệ tử bản môn, nhờ thế chúng tìm được bản di chúc của sư tổ.

Trúc Măng đạo sĩ ngừng vận công phổ tiễn khí vào lời kể chuyện. Các vị Chưởng môn thở phào. Đông Côn Sơn Chưởng môn nóng lòng giục, xin Chưởng môn đạo sĩ kể tiếp, bản di chúc nói gì. Trúc Măng đạo sĩ nói, đây là một vấn đề nghiêm trọng. Trước khi tổ sư bản môn Nhất Thành Minh qui tiên đi gặp tiên tổ sáng lập, đã cho chôn tấm bản đồ cất giấu linh kiếm ở tận cùng cao nguyên Bắc Thủy, riêng linh kiếm Hắc Kim Ô thì cất giấu ở vùng sông hồ chằng chịt Thủy Nam. Di chúc dặn đệ tử bản môn phải công bố cho các môn phái biết, vì linh kiếm có quan hệ đến vận mệnh của nước Vô Thường. Đó là linh kiếm hộ quốc.

II

Trên cao nguyên Bắc Thủy có một bang hội lớn, treo cờ một mầu máu sẫm, đề hai chữ rất khó hiểu là Trạch Cận, chúng dân quen gọi là Trạch Cận Bang. Bang chủ dùng nghi trượng thiên tử, lấy tên hiệu là Nhất Thống Trụ, húy là Mạt.

Thuở nhỏ Mạt là mục đồng chăn ngựa trên thảo nguyên, có một người bạn tâm giao lớn hơn hai tuổi, thông minh, đĩnh ngộ tên Sĩ. Một hôm hai kẻ mục đồng săn được thỏ, đem nấu chín uống rượu. Sĩ nói, lớn lên muốn làm tể tướng, dưới một người, trên vạn người. Mạt bảo, hèn, ta sẽ làm hoàng đế.

Lớn lên, lưu lạc giang hồ, Mạt lập bang Trạch Cận, lấy danh là Âu Dương Trạch Cận, tự xưng Bang chúa, Sĩ được giữ ở luôn bên bầy mưu tính kế, lấy hiệu là Trại Gia Cát. Bang hội Trạch Cận lúc đầu chỉ có thể hoạt động ở miền xa xôi, hẻo lánh, sau nhờ mưu kế của Trại Gia Cát đánh dẹp các bang hội nhỏ, triệt hạ những trại chống đối, đổi hiệu là Nhất Thống Trụ. Trại Gia Cát cậy là bạn nối khố với Bang chúa, kiêu căng vì có công bầy mưu tính kế thu phục giang hồ, nhiều lần phạm thượng. Tả hữu bẩm báo với Nhất Thống Trụ, rằng Trại Gia Cát kiêu căng phạm thượng, làm vấy bẩn uy tín bang hội, xin đem xử trảm. Lần nào Nhất Thống Trụ cũng nói, Trại Gia Cát là thượng đẳng công thần của bản bang, là bạn chí cốt từ thuở thiếu thời nên cho là ngoại lệ, được phép hành xử như vậy.

Được thể, Trai Gia Cát càng không coi ai ra gì, mắng cận vệ của bang chúa tên Beo ngay giữa tụ sảnh đường, khiến Beo định rút kiếm cho Trại Gia Cát một nhát. Chuẩn bị ăn mừng năm năm nhất thống giang hồ không chỉ miền Bắc Thủy mà là cả nước Đại Thủy Hựu, Trạch Cận Bang để cho đồ đệ các trại buông thả, rượu chè hoan lạc thả cửa không giới hạn. Trại Gia Cát vẫn theo thói cũ, gọi tên húy của Bang chúa, nói cứ để vậy thì đến khi tổ chức lễ ăn mừng, Trạch Cận Bang sẽ chẳng còn gì để ăn và uống. Thoạt đầu Nhất Thống Trụ hơi tái mặt, sau cười to, nói phải phải, Trại Gia Cát nhắc rất đúng lúc. Bang chúa gọi Beo vào phán, từ nay cấm tiệt uống rượu, ai trái lệnh chém liền, không phải bẩm báo Bang chúa.

Trại Gia Cát mở cờ trong bụng, trên đường về tư dinh luôn cười một mình, quên bẵng hình ảnh mặt tái đi chỉ trong chớp mắt của Nhất Thống Trụ. Beo đi tuần tra ngày đêm, gặp kẻ say rượu là chém, chấn động cả miền Bắc Thủy.

Một tháng sau, vào buổi chiều, Nhất Thống Trụ mời Trại Gia Cát đến, kéo vào thư phòng, nói Lão Sĩ nhìn đây, mấy cuốn sách xếp trang trọng trên cùng kia là của bằng hữu. Ta đã đọc đi đọc lại nhiều lần, lần nào đọc cũng học được một cái gì đấy, chẳng hạn chương Tiên phát chế nhân trong Trại Gia Cát ngữ lục. Trại Gia Cát ngây ngất nói, lời khen của Bang chúa đáng giá ngàn vàng, giá mà…

Nhất Thống Trụ nheo mắt, cười ha ha, nói ta hiểu ý Lão Sĩ. Thư phòng của ta luôn có rượu ngon, tối nay chúng ta sẽ uống cho say, trong thư phòng của Bang chúa là vô pháp vô thiên. Trại Gia Cát vốn là một quỉ tửu, nghe nhắc đến rượu thì mắt sáng lên, bèn nói, ôi ôi, người bạn thời niên thiếu, sao mà nhớ thảo nguyên đến thế. Nhất Thống Trụ Bang chúa nói, Tửu Thần sẽ đưa Lão Sĩ về. Vậy là Nhất Thống Trụ đãi rượu Trại Gia Cát từ chiều kéo sang đến nửa đêm.

Rượu ngon tưởng chừng uống không bao giờ say, nhưng đến khi Trại Gia Cát rời khỏi dinh Bang chúa về nhà, thì đất trời bỗng nhiên đảo lộn. Đêm biến thành biển. Trại Gia Cát bơi trong biển đó. Vừa bơi vừa hát: Ta là con chim ưng/ chuyên săn các xác chết/ rải rác trên thảo nguyên.

Bỗng nhiên Trại Gia Cát thấy đầu mình bị vặn ngược ra sau, lưỡi gươm lạnh như băng kề vào cổ. Một giọng the thé rít lên, quân sư say rượu, phạm tội chém đầu. Chém đầu. Nghĩa là chết. Trại Gia Cát chợt tỉnh, trừng mắt nhận ra kẻ vừa nói vừa kề gươm vào cổ mình là Beo.

Trại Gia Cát nói, ta là bạn của Bang chúa, ta uống rượu với Bang chúa, không có tội. Beo chậm rãi nói để cho Trại Gia Cát có thể nghe rõ. Beo nói, quân sư không nhớ sao, Bang chúa bảo, trong thư phòng của Bang chúa vô pháp vô thiên. Đây là ngoài đường. Quân sư có nhớ đã phạm thượng bao nhiêu lần không? Phạm thượng là mất đầu. Trại Gia Cát vẫn khăng khăng, Bang chúa đã nói, duy ta là ngoại lệ. Beo không giữ được, cất tiếng cười khoai trá, tưởng quân sư thông minh thế nào, nhưng ngu. Ngu vì tin lời bang chúa, đó là ngu tín. Nói rồi xuống đao, chặt một nhát.

Ngay đêm ấy, Beo xách đầu Trại Gia Cát về trình Bang chúa. Nhất Thống Trụ nhìn qua rồi bảo, ngày mai lệnh tất cả các Trại đầu lĩnh lên gặp bang chúa. Sáng hôm sau, chính ngọ, trước đông đảo hàng trăm Trại đầu lĩnh của Trạch Cận Bang, Bang chúa Nhất Thống Trụ bước ra sảnh đường. Kẻ dưới mở tấm khăn đỏ để lộ thủ cấp của Trại Gia Cát. Vừa nhìn thấy, Bang chúa liền thét lên Lão Sĩ, rồi ngất đi. Tả hữu vội xúm lại nâng Bang chúa, đưa về ngồi lên chiếc ghế Bang chủ trải da hổ Xibêri.

Một khắc. Bang chúa Nhất Thống Trụ tỉnh lại, hỏi ai đã chém Trại Gia Cát, vì sao mà chém. Beo bước ra thưa, đêm qua đi tuần, bắt được Trại Gia Cát say, nằm lăn trên đường, chém theo lệnh của Bang chúa ban ra hồi tháng trước. Bang chúa cất tiếng khóc thảm thiết, hỏi các đầu lĩnh, các người có nhớ ta nói gì về Trại Gia Cát không? Tất cả đồng thanh đáp, nhớ, Bang chúa nói Trại Gia Cát là ngoại lệ. Bang chúa nói, Beo đã làm trái lời ta, tức khắc chém đầu làm gương.

Cái chết của Trại Gia Cát và Beo như một vết rạn trên kính, cứ mỗi ngày một loang ra. Đám khất sĩ từ các nơi đến xin làm mưu sĩ cho Bang chúa nối nhau không ngớt. Trong đám khất sĩ có một kẻ dâng kế, gia tăng cường lực bên ngoài gắn hàn vết nứt bên trong. Nhất Thống Trụ khen diệu kế, tiếp nhận kẻ đó làm mưu sĩ thế chân Trại Gia Cát.

III

Vào cái ngày Chưởng môn Tây Côn Sơn, Trúc Măng đạo sĩ tiết lộ nội dung di chúc của sư tổ bản môn Nhất Thành Minh, thì trong một xóm toàn tòng dân bản địa ở vùng Bụt Sơn, đất tổ của các tộc người nước Vô Thường, có một nữ nhân trở dạ, sinh hạ một bé trai toàn thân đỏ rực như vầng kim ô buổi sáng. Qua một tháng, tóc đứa bé đã mọc dài cả tấc, đen nhánh. Toàn thân cũng chuyển sang mầu đen.

Một cao nhân đi qua, nghe kể bèn ghé thăm, nói đứa bé này có số phận phi phàm. Người mẹ nói, bố cháu mất tích khi đi săn thú trên rừng. Cháu mồ côi bố lúc ở trong bụng mẹ được sáu tháng. Vị cao nhân nói, số trời. Người mẹ năn nỉ, xin cao nhân đặt cho cháu một cái tên. Ngẫm nghĩ một lát, vị cao nhân bảo, đặt cháu là Hắc Kim Ô.

Năm lên ba tuổi, Hắc Kim Ô mồ côi mẹ. Dân làng thay nhau nuôi bé, mỗi nhà dăm ba bữa. Sau có một hiệp khách đi qua, nhìn tướng mạo của cháu, xin với trưởng làng mang cháu theo.

IV

Mười năm đi qua. Đó là một chặng đường đầy sóng gió trong thế giới võ lâm, không chỉ ở nước Vô Thường mà cả miền Bắc Thủy. Tin linh kiếm Hắc Kim Ô lan nhanh, lúc đầu chỉ là gió thoảng, sau thành cơn bão.

Trước tiên xin nói những gì xẩy ra ở miền Bắc Thủy. Bắc Thủy với Thủy Nam vốn nằm trong cương vực của một vương quốc cổ, có nhiều bộ lạc và tộc người khác nhau sinh sống. Vương quốc cổ tan rã, Thủy Nam thuộc nước Vô Thường, tập hợp các tộc người chủ yếu làm nghề sông nước, một số làm nghề sơn tràng. Các môn phái võ lâm Vô Thường tranh giành nhau ngôi minh chủ, gây ra những cuộc tàn sát không dứt. Bắc Thủy thuộc nước Đại Thủy Hựu rộng lớn, có nhiều cao thủ tập họp trong các Bang Hội, việc tranh giành ngôi chúa tể lúc ngấm ngầm, lúc dữ dội, hành xử rất tàn độc. Ngày tin linh kiếm Hắc Kim Ô loang ra giang hồ, bang hội Trạch Cận đã thống nhất võ lâm Đại Thủy Hựu được mười lăm năm, thế lực trùm ra ngoại vực.

Cho đến nay, người ta vẫn lấy làm khó hiểu, chẳng rõ bằng cách nào, câu chuyện giữa năm vị Đại Chưởng môn nước Vô Thường lại đến được tai Bang chúa Trạch Cận Bang Nhất Thống Trụ.

Nhất Thống Trụ họp với các Trại đầu lĩnh và mưu sĩ bàn đoạt cho được bản đồ giấu linh kiếm Hắc Kim Ô và chuẩn bị lực lượng chiếm đoạt. Bang chúa hỏi mưu sĩ làm cách nào thực hiện. Mưu sĩ hiến kế, theo tin tức có được thì miền Bắc Thủy đã trở thành yếu địa, nên cần phái người canh gác nghiêm ngặt. Tất cả những kẻ từ nơi khác đến hoặc từ Vô Thường sang phải được theo dõi ngày đêm, tìm cách mua chuộc, thu nạp vào bang hội, để lấy manh mối tìm kiếm bản đồ. Nếu không khống chế được thì giết đi. Riêng chuẩn bị lực lượng để chiếm đoạt linh kiếm, xin Bang chúa cho tiến hành cùng lúc hai phương cách. Một là chuẩn bị ngay các cao thủ am hiểu phong tục tập quán, quen thuộc thời khí phương nam, để khi có bản đồ là xuất quân chiếm đoạt. Hai là mua chuộc người bản địa, hoặc cho người của ta cài vào các môn phái, chiếm lấy vị trí Chưởng môn. Việc này rất khó, nhưng kính bẩm Bang chúa, nếu thành công thì thật tuyệt đỉnh, không chỉ giành được linh kiếm mà còn giành được cả cương vực. Nhất Thống Trụ khen kế sách hay, cứ theo thế mà làm.

Hắc Kim Ô được một cao thủ võ lâm ở Thủy Nam đem đi, nuôi lớn, năm tuổi đã cho học võ, công phu luyện được tám năm dài, có thể xếp vào hàng thượng thừa, duy kiến văn về đời sống thì vẫn chỉ là đứa trẻ. Trong mười năm Hắc Kim Ô lớn lên, chỉ biết luyện võ trên một cô đảo, thì năm môn phái lớn nước Vô Thường trở nên lục đục. Môn phái nào cũng mơ độc chiếm Hắc Kim Ô.

Hỏi linh kiếm Hắc Kim Ô hình thù như thế nào không ai biết. Vì thế các môn phái luôn phái người do thám, hễ giang hồ xuất hiện một thanh kiếm lạ là tìm cách đoạt lấy, bằng mưu mẹo, bằng vũ lực. Những nghi ngờ thù hận, những cuộc giao đấu liên miên làm cho nguyên khí của võ lâm Vô Thường suy giảm một cách đáng kể.

Khi đem bí mật bản môn, di chúc của sư tổ Nhất Thành Minh, kể cho các môn phái, Trúc Măng đạo sĩ muốn các đại môn phái hợp tác với mình. Thế nhưng các môn phái đều quay lưng lại. Những cuộc kiếm tìm và giao đấu khiến số cao thủ của Tây Côn Sơn hao hụt non nửa. Trúc Măng đạo sĩ họp các cao đồ, nói bản tâm ta muốn các môn phái cùng hợp tác để tìm linh kiếm bảo vệ võ lâm và hộ quốc, nhưng không được Trời giúp. Nay ta quyết định làm ngược lại, tranh đấu thống nhất võ lâm,  giành ngôi minh chủ rồi tìm linh kiếm. Các cao đồ đồng thanh nói, theo ý Chưởng môn. Trúc Măng đạo sĩ hài lòng nói tiếp, ta truyền ngày rằm tháng tám sẽ hội võ ở Đông Côn Sơn, kẻ thắng cuộc sẽ làm minh chủ võ lâm.

V

Hắc Kim Ô được sư phụ đưa vào đất liền, dấn thân giang hồ, đi đến đâu cũng thấy tiếng nguyền rủa. Hắc Kim Ô là đồ bỏ đi, là thứ nghiệt kiếm gây trùng trùng tội ác. Hắc Kim Ô không quen nghe những lời xói óc như vậy, bèn xin với sư phụ đổi tên. Sư phụ nghiêm khắc nói, nếu con không chịu được những lời như vậy, thì làm sao con có thể sống trong giang hồ. Bản lĩnh của một cao thủ chính là biết cách đứng vững trước mọi bão tố, thử thách, phải như cây thông giữa chênh vênh núi cao và vực sâu.

Đêm ấy hai thầy trò Hắc Kim Ô trải lá nghỉ lại ở một khu rừng trúc trên đỉnh núi nhìn xuống biển thuộc đất Thủy Nam. Giờ dần, Hắc Kim Ô thức dậy, thấy sư phụ ngồi xếp bằng tròn, như đang tĩnh tọa. Nhìn lên trời, có một vầng mây sà thật thấp. Hắc Kim Ô kêu to, sư phụ. Không có tiếng trả lời. Người đã cưỡi mây ra đi mãi mãi.

Hắc Kim Ô rời Thủy Nam ra miền Hải Đông, nơi có núi Đông Côn Sơn sẽ diễn ra cuộc hội võ vào rằm tháng tám, mang theo lời dạy của sư phụ như là lời di chúc.

Ngày đi đêm nghỉ. Hắc Kim Ô đi qua một vùng sơn cước, không có cư dân, đói bụng bèn nhẩy xuống hồ lặn bắt cá. Cuộc lặn đầu tiên, Hắc Kim Ô nhìn thấy một con cá lạ hình đoản kiếm đen lóng lánh lao vút qua, bèn vận năm thành công lực đuổi theo, nhưng không thể kịp. Bèn vận đến bẩy thành công lực mới tóm được nó. Con cá quẫy mạnh, khiến Hắc Kim Ô vô cùng ngạc nhiên, nó như một con cá có bản lĩnh công phu. Khi lên đến bờ, chàng còn kinh ngạc hơn thấy đang cầm trong tay một thanh đoản kiếm lóng lánh đen. Phép lạ.

Nhưng thanh đoản kiếm không có chuôi. Chàng bèn nghĩ, chắc chuôi kiếm nằm quanh đâu đó trong hồ này. Nhưng chàng tìm suốt cả ngày không thấy.

Hắc Kim Ô cất đoản kiếm vào bọc hành lí, vượt rừng đi tiếp, qua một làng chài, không biết vì lí do gì, hoang lạnh, cũng không một bóng người. Chàng kiếm được một tấm lưới và một con thuyền, bèn ra giữa sông quăng chài bắt cá làm bữa. Chàng quăng một đỗ, kéo lưới, bắt được một con cá măng to. Đốt lửa nướng. Khi ăn, chàng phát hiện ra một vật lạ trong bụng cá, xem kĩ thì đó là chuôi kiếm, trên chuôi kiếm khắc ba chữ: HẮC KIM Ô. Duyên trời cho. Chàng lấy lưỡi kiếm ra, lắp vào chuôi thì vừa in, không tháo ra được nữa.

Đến Hải Đông, Hắc Kim Ô tìm trọ ở một lữ quán nhỏ, báo danh là Thủy Nam Tử, hàng ngày đi nghe ngóng tin tức giang hồ, chờ đến rằm tháng tám lên Đông Côn Sơn xem hội võ. Lần đầu tiên chàng xuất hiện giang hồ, với một tên lạ hoắc Thủy Nam Tử, thì thực tế chỉ là một kẻ vô danh.

Chàng nằm lại Hải Đông nửa tháng. Đó là nửa tháng rất có ý nghĩa. Ở Hải Đông chàng biết được lực lượng của các võ phái từ khắp nước Vô Thường kéo về, tranh đoạt ngôi minh chủ võ lâm để làm chủ linh kiếm Hắc Kim Ô mới chỉ nghe truyền miệng, đồn thổi. Phái võ nào cũng tự cho mình có chính nghĩa, chỉ phái võ mình mới đủ tư cách chiếm giữ linh kiếm, đủ sức hộ quốc. Chàng cũng dò biết rằng, các cao thủ của Trạch Cận Bang nước Đại Thủy Hựu giấu mặt đang ở khắp Hải Đông, chờ đoạt lấy vị trí chí tôn của võ lâm Vô Thường, giành lấy linh kiếm hộ quốc.

Chàng chưa biết mình sẽ làm gì trong cuộc hội võ Đông Côn Sơn sắp tới.

VI

Ngày rằm tháng tám. Đông Côn Sơn như một thùng thuốc nổ. Thủy Nam Tử trà trộn vào dòng người kéo nhau lên núi, đoản kiếm giắt vào bụng phòng thân.

Chưởng môn phái Đông Côn Sơn chủ trì hội võ. Trúc Măng đạo sĩ, Chưởng môn phái Tây Côn Sơn đồng chủ trì.

Trúc Măng đạo sĩ nói, trước khi hội võ diễn ra, chúng ta phải giải quyết triệt để một việc, sử tội phản đồ.

Hai đại cao thủ phái Tây Côn Sơn, áp giải một người từ dưới đi lên. Võ trường ồn ào. Hóa ra đó là một cao đồ của môn phái. Trúc Măng đạo sĩ nói, hạch tội.

Một đại cao thủ phái Tây Côn Sơn rút từ ống tay áo ra tờ giấy đọc, nói đại đệ tử này là tẩu cẩu của Trạch Cận Bang, ăn cắp di chúc của sư tổ Nhất Thành Minh gửi cho Bang chúa nước Đại Thủy Hựu, tìm kiếm những kẻ hai lòng lập lực lượng ngầm.

Quần hùng giận sôi, hò hét xử trảm

Tên tẩu cẩu bị chém đầu tại võ trường. Máu chảy như một thứ thuốc kích động, làm võ trường sôi sùng sục. Các môn phái thay nhau chiến thắng và thay nhau thất bại. Cuối cùng chỉ còn lại hai vị Chưởng môn Tây Côn Sơn và Đông Côn Sơn. Trong hai vị sẽ có một là minh chủ võ lâm.

Bỗng có một cao nhân nhẩy lên võ đài. Người này râu tóc bạc phơ, mặc toàn đồ trắng, vóc hạc mảnh mai, tiếp đất nhẹ như lá rơi. Hai vị Chưởng môn Tây Côn Sơn và Đông Côn Sơn không ai bảo ai cùng phất tay áo đánh ra một chưởng. Chưởng lực của hai vị hợp lại, mạnh như cuồng phong. Võ trường đinh ninh, vị cao nhân nọ sẽ bị đánh bay xuống núi. Nhưng không. Chưởng lực của hai vị Chưởng môn đến trước Bạch y lão nhân bỗng nhiên tiêu tán. Thủy Nam Tử thấy sắc mặt của con người vóc hạc kia không đổi, bèn thốt ra lời, công phu tuyệt đỉnh. Dù nói rất nhỏ, nhưng với công phu của mình Thủy Nam Tử vẫn khiến một dị nhân đối diện, hiển nhiên là một cao thủ, ăn vận theo kiểu Vô Thường, nhưng nom khí chất rất lạ, không phải do thời khí, thủy thổ nơi này đào luyện nên, đặc biệt chú ý.

Hai vị Chưởng môn Tây và Đông Côn Sơn thấy chưởng lực của mình phóng ra, dù chưa đủ mười thành công lực, nhưng cũng đến bẩy tám, nhưng không có tác động gì thì ngầm kinh hãi, bèn chắp tay nói, xin cao nhân chỉ giáo. Bạch y lão nhân cười nói, lão nhân chỉ có một lời khuyên hai vị Chưởng môn. Đánh nhau khiến tình nghĩa đổ vỡ, nguyên khí thương tổn, cuối cùng kẻ ngoài hưởng lợi. Hai vị Chưởng môn nên xem xét làm đồng minh chủ. Đúng lúc đó thì có con hạc lớn từ đâu bay đến, nghiêng xuống. Bạch y lão nhân khẽ nhún mình, bay lên từng không, hạ nhẹ xuống lưng hạc. Rồi cả người và hạc mất hút phía chân trời.

Thủy Nam Tử ngầm đồng tình với Bạch y lão nhân, giờ được quần hùng mệnh danh là Bạch Hạc Tiên. Bất ngờ, vị cao thủ đứng đối diện với Thủy Nam Tử, dùng thuật sư tử hống gầm lên, khiến toàn bộ cao thủ ở võ trường rạp xuống như đám cỏ bị bão quét qua. Chỉ riêng hai vị Chưởng môn và Thủy Nam Tử là đứng vững. Cao thủ lạ mặt liệng người, trong nháy mắt đã đứng trước hai vị Chưởng môn, nói ta sẽ đánh gục nhị vị, võ lâm Vô Thường sẽ thuộc về ta.

Trúc Măng đạo sĩ là người từng trải nhất giang hồ Vô Thường kêu lên, Nhất Thống Trụ, Bang chủ Trạch Cận Bang. Tại hạ thật sơ xuất, không tiếp đãi Bang chủ chu đáo, xin tiếp chưởng. Lập tức Trúc Măng đạo sĩ vận đủ mười thành công lực đánh ra một chưởng, sức mạnh nghiêng núi. Chưởng môn Đông Côn Sơn sau một giây ngỡ ngàng, cũng vận mười thành công lực đánh ra một chưởng nhằm vào Nhất Thống Trụ, hỗ trợ Chưởng môn Tây Côn Sơn. Một tiếng nổ vang lên như tiếng sét, hai vị Chưởng môn bật ra phía sau, tay áo cháy sém. Nhất Thống Trụ cười ha hả, nói nhân tài Vô Thường chỉ có như thế thôi sao. Nhị vị đầu hàng đi, ta phong cho nhị vị làm Trại đầu lĩnh.

Hai vị Chưởng môn cười nhạt, nói không hàng thì sao? Nhất Thống Trụ cao ngạo, thì chết. Ta nhân đạo cho các người tự chọn cái chết.

Quần hùng sau khi chứng kiến cuộc đấu chưởng thì khiếp vía, nhiều người không chịu đựng nổi đã lặng lẽ trốn khỏi võ trường.

Hai vị Chưởng môn Tây và Đông Côn Sơn không hổ là cao thủ bậc nhất Vô Thường, cùng hét to một tiếng, vọt lên cao tạo nên thế đảo sơn, hợp lực đánh thẳng xuống đầu Nhất Thống Trụ. Bang chủ Trạch Cận Bang lắc người tránh khỏi cú đánh hủy diệt, lập tức phản đòn. Hai vị Chưởng môn bị đánh bật ra xa, mũi và miệng đều ứa máu.

Nhất Thống Trụ lặp lại, qui phục đi. Rồi cười như gã điên nói, hỡi ôi Vô Thường Quốc cạn kiệt nhân tài.

Thủy Nam Tử quan sát Nhất Thống Trụ ra đòn, nhận ra điểm yếu chí mạng của y, chậm rãi bước lên võ trường, nói ta sẽ đánh một chưởng đúng như chưởng Bang chủ đã đánh hai vị Chưởng môn, nếu không đỡ nổi thì cút về Đại Thủy Hựu. Nói rồi ra đòn liền.

Nhất Thống Trụ nhìn chú bé chừng mười ba mười bốn tuổi, biết là hàm chứa công phu thượng thừa, nhưng vẫn có ý coi thường. Đến khi nhìn vào mắt chàng thiếu niên thì giật mình sợ hãi. Hai con mắt chói sáng như hai vầng kim ô. Nhất Thống Trụ vội vận hết công lực, đưa chưởng ra đón. Nhưng chưởng lực của Thủy Nam Tử trơn tuột như lươn lao thẳng vào ngực Bang chủ Trạch Cận Bang, đẩy y bay xuống giữa dốc, hộc ra một bãi máu.

VII

Quần hùng vỗ tay hò reo, Nhất Thống Trụ cút về Đại Thủy Hựu. Hai vị Chưởng môn bước đến, khoanh tay thưa, xin được biết quí danh thiếu hiệp. Thủy Nam Tử buột miệng nói, Hắc Kim Ô.

(Đọc thêm Duyên chè trên VNTN số tết âm lịch năm 2015)

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Đi về miền thương

Văn xuôi 13 giờ trước

Vị chát trung du

Văn xuôi 1 tuần trước

Gió mùa Đông Bắc se lòng

Văn xuôi 1 tuần trước

Mùa của dã quỳ

Văn xuôi 1 tuần trước

Gánh khoai ngày mưa

Văn xuôi 1 tuần trước

Máu xanh

Văn xuôi 1 tuần trước

Lối của tháng Mười

Văn xuôi 2 tuần trước