
Góc biếm họa số 11 (2025)

Năm 1968 tôi và Thanh đang học lớp 10 thì nhận được giấy báo nhập ngũ. Hai chúng tôi hồ hởi chuẩn bị lên đường trong sự ghen tức của đám bạn học. Ai cũng nghĩ “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” như thơ Phạm Tiến Duật. Tôi và Thanh qua đò sang thị xã chụp một kiểu ảnh làm kỷ niệm. Tấm ảnh duy nhất Thanh có.
Ra chiến trường mới sáng mắt ra, dữ dội và khốc liệt khiến tôi sớm bị “loại” chỉ sau mấy năm chiến đấu. Tôi bị thương, ra Bắc an dưỡng rồi đi học tiếp. Còn Thanh đi khắp nơi, sang tận Campuchia rồi lại về Nam Bộ. Hắn (quê tôi xưng với bạn thân như vậy) trải qua mọi gian nan, ác liệt của bom đạn Mỹ. Chúng tôi cũng bặt tin nhau từ dạo ấy.
Tốt nghiệp ra trường, về thăm quê tôi mới biết là Thanh đã hy sinh. Nhà Thanh vốn nghèo, bố mẹ già đã mất, vợ con chưa có. Hồi học với Thanh, tôi hay mò sang nhà Thanh ăn chực nên quen biết Quý là em trai. Quý đau yếu từ bé, lại hơi “không bình thường”, nói trước quên sau.
Hỏi tình hình của Thanh, em đưa cho tôi xem Giấy Báo tử, tờ giấy nhàu nát, ố vàng chữ viết bằng bút lá tre bằng mực xanh nhòe nét, không đọc được. Hóa ra đến khi đó không ai biết Thanh hy sinh ở đâu, thời gian nào, có mộ hay không.
Từ lâu tôi đã có ý định tìm Thanh, nay càng quyết tâm. Với tấm ảnh chụp chung tôi và Thanh khi trước và tờ Giấy Báo tử tôi đến tất cả các tờ báo có mục Nhắn tìm đồng đội nhưng không đâu hồi âm. Hỏi em Qúy hễ nghe tin, cựu chiến binh nào ở đâu tôi cũng mò tới. Tôi đã tìm đến Quân khu IV, rồi đến nhiều đơn vị nữa nhưng vô vọng. Chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, các đơn vị quân đội sáp nhập, giải thể, đổi tên khó mà tìm ra. Những địa điểm trong thư Thanh gửi về nhà nay đã là những thành phố nguy nga, nhà cao tầng, công viên, trường học mới được xây dựng. Đành bó tay.
Một lần tôi được mời về dự Lễ khánh thành ngôi trường Phổ thông cơ sở xã Nam Cường. Buổi lễ thật đông vui, đến tiết mục ca nhạc, nghe như có ai đó gọi tôi. Tôi ra ngoài, châm điếu thuốc lá rít một hơi, thả mắt nhìn trời cao bao la thì em Quý từ đâu chạy ào đến:
- Anh cũng về à? Em đi chợ Cồn có gặp một anh cựu chiến binh người Hưng Lam hay Hưng Phú gì đó, tên là Thịnh. Anh ấy bị tâm thần. Em gặp anh ấy đi lang thang, đang nhặt lá bánh, em hỏi anh Thanh. Anh ấy biết đấy, cùng anh Thanh chiến đấu ở Tây Ninh.
Nghe thì nghe vậy nhưng tôi chẳng mặn mà gì bởi như bao lần Quý nói có đúng đâu... Bây giờ lại có thêm anh thương binh “tâm thần” nói nữa. Hai ông tâm thần chắc gì mà tin.
Thế nhưng tuần sau tôi cũng về cùng Quý sang sông, tìm anh thương binh trong sự ngờ vực. Ngờ vực vì đêm trước khi về, lúc ngủ tôi mơ gặp Thanh. Thanh vẫn như ngày chúng tôi chia tay, hắn đẹp trai ngời ngời, mái tóc bồng chải ngôi, hai má ửng hồng, môi đỏ như môi con gái, khoác vai tôi khi chụp ảnh.
- Mày đi hỏi đi, ông ấy biết đấy - Tôi bảo Quý.
Quý đã tìm hỏi trước nên anh em tôi không mất thì giờ, đi thẳng vào nhà anh Thịnh. Rót nước chè xanh còn đượm mùi thơm, anh chị tiếp chúng tôi khi nghe chúng tôi nói lý do đến thăm anh chị.
Anh Thịnh hôm nay khỏe, ăn mặc gọn gàng tươm tất, anh nói khúc chiết:
- Tui xuất ngũ. Còn cái gáo là may rồi. Bao nhiêu bạn bè chết ngay trên đường tiến vào Sài Gòn. Từ Núi Bà Đen tràn xuống, tôi bị bom ngay lúc ra khỏi bìa rừng. Đến tối tui mới được cứu sống lại, rồi mấy tháng sau phục viên.
- Anh nhớ lại xem, anh gặp anh Thanh lần cuối vào lúc nào?
- Để tui nhớ xem. Anh xoa hai tay lên thái dương ngẫm nghĩ:
- Trước khi đánh trận cuối cùng chừng 2 tuần. Nhưng trước đó chúng tôi đã quen biết nhau. Chúng tôi cùng nhập ngũ một đợt. Tôi là binh Nhì nhưng là đảng viên nên được phân công là Tiểu đội trưởng, anh Thanh binh nhì trơn, ở tiểu đội khác dù anh ấy học cao, lớp 10 chứ ít ỏi gì.
- Anh có nhớ tên đơn vị của các anh không?
- Con số ai mà nhớ nổi...236 KH chi đó. Tân binh rèn ác lắm. Riêng cái đận sắp hàng đi ăn cơm đã khó chịu. Bờ ruộng bé tẹo, chỉ đi được một người, không khéo thì ngã. Trời lại đang mưa. Ấy vậy mà trung đội trưởng tập hợp anh em hàng hai...
Có một tối, sau khi cả mấy tiểu đội chong đèn nghe đọc báo tập thể, Thanh gặp tôi nói nhiều chuyện, tôi kêu đói, anh hỏi:
- Cơm có hạn nhưng không đến nỗi thiếu, cậu to xác, lại ăn nhiều, 3 bát chưa đủ phải không? Tớ bày cho nhé. Thực hiện công thức này: Đầy - Vơi - Đầy là tốt nhất.
- Nghĩa là thế nào?
- Mỗi mâm 6 người, bát thứ nhất (lần xới thứ nhất) xới thật đầy. Ăn hết lần này sau các bạn (thế là đã được một bát đầy rồi nhé). Bát thứ hai (lần thứ hai) xới vơi thôi. Ăn hết bát này trước các bạn. Cơm trong chảo còn nhiều, xới bát thứ ba (lần xới thứ ba) xới thật đầy. Các bạn ăn hết trước, bỏ đũa thì bát mình vẫn đầy cơm (thế là mình được 2 bát đầy, chỉ một bát vơi), ăn no bụng.
Rõ học cao có khác. Tôi thực hiện, quả tình từ đó tôi no bụng. Một lần tôi hỏi Thanh:
- Mày biết thế, thảo nào, chắc mày vẫn chén đẫy bụng nhỉ.
- Không, tao giỏi toán và từ thực tế bữa ăn ở đây nên tìm được công thức ấy nhưng chưa bao giờ tao thực hiện bởi biết cơm có chừng ấy mà tao ăn nhiều hơn thì anh em khác sẽ còn ít hơn, sẽ đói. Tao không ăn.
Tôi ngượng đỏ mặt. Từ đó không bữa nào tôi xới bát thứ nhất đầy nữa và những bát sau, nhìn anh em mà “ Liệu cơm gắp mắm” thôi.
Mấy năm sau trước khi chiến tranh kết thúc vài tháng, khi tập trung các quân đoàn chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh thì chúng tôi lại bất ngờ gặp nhau. Tôi ngỡ ngàng, Thanh cao lớn chứ không lùn tịt như hồi nhập ngũ, gầy đôi chút nhưng chững chạc với quân hàm Đại úy. Hồi ấy Đại úy là ghê lắm rồi.
Rồi mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi từ Tây Ninh tràn về thành phố Sài Gòn và giành toàn thắng. Ngày xuất ngũ, khi chia tay với mấy bạn cùng đơn vị có người nói với tôi rằng Thanh đã hy sinh rồi. Thậm chí anh bạn còn nói cụ thể là lúc 9 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
- Đơn vị của các anh phiên hiệu là gì, nay ở đâu anh có biết không?
- Quên mẹ nó rồi...ứ ừ… sau chiến tranh giải tán rồi.
Anh lại bóp đầu xoa trán, chắc là cơn đau lại sắp đến rồi. Chúng tôi ái ngại quá, cám ơn anh chị rồi ra về.
Tôi vào Tây Ninh, tìm đến hỏi thăm các nghĩa trang liệt sĩ gần quanh. Nhiều nghĩa trang lắm. Nhỏ, to.. đi hết cũng mất vài ngày. Tôi cố gắng nhưng vô vọng. Thanh ơi, biết tìm mày ở đâu bây giờ khi phiên hiệu đơn vị mày tao không biết thì ngay cái tên nghĩa trang cũng không tìm được, huống chi bạt ngàn những ngôi mộ vô danh. Hay là mày nằm trong số những ngôi mộ vô danh ấy?
Trở về Sài Gòn, đêm chập chờn không sao ngủ được. Nghĩ lung tung, rồi như ai mách bảo, tôi sực nhớ tôi có người bà con ở đây. Chị Xuân gọi bố tôi bằng cậu ruột. Tôi gọi là chị nhưng chị ít tuổi hơn tôi. Chị vào đây, lấy chồng là công an công tác tại thành phố, anh cũng ít tuổi hơn tôi. Sáng sớm hôm sau tôi đến nhà thăm anh chị. Anh chị tiếp đón tôi chu đáo và giữ lại ăn cơm trưa. Tôi từ chối vì vội đi. Tôi nhờ anh giúp chở tôi bằng cái xe Honda đi tìm Thanh. Anh chị vui vẻ nhận lời.
Anh Hiên, chồng chị Xuân vốn là cảnh sát khu vực nên tìm các địa điểm là chuyên môn của anh. Cái xe máy cà tàng chở hai anh em to béo đến vẹo cả xe. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, hai anh em chúng tôi đi đến các Phòng, Sở Lao động Thương binh và Xã hội mấy thị trấn, mấy phường, mấy huyện cũng bặt vô âm tín. Hết một ngày ròng rã chưa ra khỏi nội thành. Trời tối, đành quay về. Hẹn sáng mai đi tiếp.
Cả ngày đi mệt nhoài tôi tắm rửa xong, gặm mẩu bánh mì khô cứng qua bữa rồi tót lên giường đi ngủ. Ngủ say như chưa bao giờ được ngủ. Tôi lơ mơ nghe như ai đó nói với mình: “mai đi tiếp lên đến Hóc Môn thì dừng ngay bên đường hỏi vào Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện”... Tôi mơ màng ngủ tít đến sáng.
Mới tang tảng sáng thì anh Hiên đến cổng khách sạn chờ rồi. Tôi chỉ kịp rửa mặt rồi vội vàng xách cái máy ảnh cơ quan mang theo, nhảy tót tên xe máy, ôm chặt lưng anh. Anh nổ máy vù đi. Đến gần trưa, trời nắng chang chang, anh Hiên tạt xe vào quán nước ven đường mua 2 chai nước suối. Hai anh em uống và hỏi thăm. Đã đến Hóc Môn. Tôi bỗng nhớ giấc mơ đêm qua.
Chúng tôi tìm đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội nằm trên một con phố nhỏ dọc theo Đại lộ Trường Chinh. Bên kia đại lộ là Nghĩa trang Hóc Môn, to rộng được xây cất thật trang nghiêm.
Mình tôi lên tầng trên. Tôi xin gặp Trưởng phòng, trình thẻ Nhà báo và nội dung xin làm việc. Trưởng phòng còn trẻ lắm, hơn 25 tuổi chứ mấy. Anh mời tôi uống nước rồi gọi cán bộ phụ trách Lưu trữ ra giao nhiệm vụ, giúp đỡ tôi lục tìm tài liệu.
Tôi theo cán bộ Lưu trữ vào kho. Chị nhân viên Lưu trữ rất hòa nhã, nói năng nhẹ nhàng:
- Thưa chú, đây là tất cả hồ sơ thương binh, liệt sĩ cơ quan cháu lưu giữ. Chị chỉ đống hồ sơ cao gần nửa mét mà chị vừa bê ra để trên bàn.
Phòng có điều hòa chạy rè rè. Tôi ngồi xuống lần giở từng trang đến vã mồ hôi mà chẳng thấy tăm hơi gì cả. Chị cán bộ lưu trữ cũng lần tra từng dòng, hết trang này đến trang khác trên máy tính. Bỗng reo lên:
- Chú ơi đây rồi nè. Nguyễn Văn Thanh... Tôi nhào sang bàn máy tính:
- Đâu? Đâu? Tôi ghé mắt kính cận dày cộp vào màn ảnh máy tính.
- Đây chú nè. Chị né người tránh ra cho tôi nhìn màn ảnh.
Tôi hồi hộp lần con chuột máy tính, rê tiếp. Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1931, quê quán không rõ.
- Chị ơi, không phải rồi. Anh bạn tôi tên Thanh, bằng tuổi tôi, sinh năm 1949.
Hai chúng tôi thất vọng, buồn rười rượi. Nhìn đồng hồ trên tường cũng đã 12 giờ trưa. Đống hồ sơ tôi đã xem hết. Chán mớ đời. Tôi chào chị và đi xuống. Anh Hiên chờ tôi cả buổi, mệt nên gục đầu trên bàn phòng Bảo vệ ngủ được giấc ngon lần.
- Không thấy sao chú?
- Không. Tất cả hồ sơ giấy và hồ sơ lưu máy tính đều không có.
- Vậy ta về nhé. Mai đi tiếp các địa phương khác chú ạ.
- Đành vậy thôi. Kiếm cái gì đút miệng đã. Em đói lắm rồi.
Tôi chào bác bảo vệ theo ông anh dắt xe ra cổng để về. Ra khỏi cổng định leo lên xe thì anh bỗng dẫm phải hòn đá nhỏ giữa đường, trượt chân, anh xuýt xoa kêu đau. Tôi cũng như hoa mắt, như có ai níu vai. Tôi nói với anh:
- Anh ơi hình như em chưa tìm hết hồ sơ hay sao ấy. Anh em mình chờ hết giờ nghỉ trưa, quay lại xin lục tiếp anh ạ. Thằng Thanh thiêng lắm mà anh. Em nghiệm rồi, mấy lần rồi, nó nhắc nhở em đấy.
- Cũng được. Anh cũng thấy hơi lạ. Xưa nay anh có vấp bao giờ. Thì ở lại, chiều tìm tiếp khỏi áy náy.
Anh em tôi gửi lại xe máy và ra phố ăn cơm trưa. Chờ đến giờ làm việc buổi chiều, chúng tôi lại vào cơ quan. Tôi lại lên Phòng Lưu trữ, nhờ chị nhân viên lục tìm lần nữa, hết mọi gói tài tiệu lớn bé trong phòng, kể cả hồ sơ khen thưởng, tuyên dương... nghĩa là chẳng liên quan gì đến thương binh, liệt sĩ.
Gần giữa buổi chiều, tôi hoàn toàn tuyệt vọng, đành chào chị ra về. Chị tỏ ra áy náy và thông cảm với tôi. Ra khỏi Phòng Lưu trữ, xuống cầu thang tôi sực nhớ chưa chào Trưởng phòng Lao động Thương binh và Xã hội. Rồi như có ai mách bảo gì đó, tôi chầm chậm leo cầu thang đi lên. Tần ngần một chút tôi gõ cửa. Trưởng phòng mở cửa vồn vã:
- Thế nào bác? Có thấy không, tất cả hồ sơ Phòng cháu quản lý đấy. Đã nhập vào máy tính tất cả.
- Không thấy. Có lẽ không có ở đây. Làm phiền các cháu quá. Các bác đi thôi, bác vào cám ơn cháu.
- Không có gì, bác đi may mắn nhé.
Tôi bắt tay Trưởng phòng và quay đi. Chưa kịp bước xuống bậc cầu thang thì tôi nghe tiếng gọi giật giọng:
- Bác ơi, bác vào đây chút đã. Cháu còn một cặp hồ sơ liệt sĩ nữa, Phòng Lưu trữ nhận để nhập vào máy tính còn sót lại ở phòng cháu đây này. Hai bác cháu tìm xem nhé.
Tôi vào phòng anh. Anh ôm một bọc to tướng, gồm giấy tờ khổ giấy to nhỏ khác nhau. Giấy đã ố vàng, nhăn nheo và nhiều tờ đã rách nát, nhiều tờ mực viết lâu ngày nhòe nhoẹt, chữ xiêu vẹo, mất nét không đọc ra chữ gì. Hai bác cháu ngồi lần giở từng trang, có trang bết vào nhau phải gỡ bằng nước bọt. Khi gần hết đống giấy mốc meo, bụi ẩm bay nghẹt mũi tôi bỗng thấy tay mình như phải bỏng. Tờ giấy mỏng, ngả màu xám, nét bút lá tre ngày xưa. Ôi, đây rồi. Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1949, quê quán Xuân Tân, Hy sinh ngày 30 tháng 4 năm 1975 (Tôi nhớ ra quê của Thanh là xóm Phú Xuân nhưng năm 1966 đến năm 1969 sáp nhập với xóm Duy Tân nên gọi là Xuân Tân). Tôi như nghẹt thở, nước mắt trào ra:
- Thấy rồi cháu ơi! Tôi reo lên.
- Thế thì tốt quá bác ơi. Như vậy là trong máy cháu đã có rồi, ở file khác. Để cháu tìm.
Nói rồi anh ôm lấy máy tính tìm trên sơ đồ, vị trí các ngôi mộ ở các nghĩa trang trong huyện Hóc Môn. Một lúc lâu anh hồ hởi:
- Đây rồi. Mộ bác Thanh ở ngay nghĩa trang Hóc Môn này thôi. Sau tượng đài Tổ quốc ghi công, hàng thứ hai, ngôi thứ 4 bên trái, cạnh cây hoa bông trang (hoa mẫu đơn). Bác ra đấy thấy ngay mà.
- Sao lại ở nghĩa trang này, đây là Nghĩa trang Quốc gia, cháu có nhầm không đấy? Nơi này là Hóc Môn với 18 Thôn Vườn trầu nổi tiếng, nơi thực dân Pháp đã tử hình chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng với các nhà cách mạng Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến... khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bị đàn áp năm 1941.
- Bác nói đúng đấy, nhưng sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 quân ta ào ạt đánh vào Sài Gòn. Cánh quân từ Tây Ninh tràn xuống, qua đây lúc 9 giờ 30 bị bọn lính ngụy chống trả quyết liệt. Nhiều chiến sĩ của ta bị thương và hy sinh tại đây. Nhân dân tràn ra cõng, bế thương binh cứu chữa. Những người hy sinh gần ngay nghĩa trang này được bà con khâm liệm và chôn cất ở đây. Sau ngày chiến thắng, các đơn vị có chiến sĩ hy sinh đã về nhận mộ và chuyển về nghĩa trang đơn vị. Những trường hợp đã yên ổn trong các nghĩa trang có sẵn thì thôi, bàn giao cho Quản trang địa phương sang cát, chăm sóc, hương khói.
Có gì vui sướng hơn, tôi xin số điện thoại của anh rồi chào và xuống cầu thang.
Hai anh em tôi qua đường thấy ngay cổng nghĩa trang khóa và vọng gác chẳng có ai. Tôi bảo anh Hiên:
- Ta đi mua hương đã, vào tìm Thanh và thắp hương cho các vị liệt sĩ và Thổ địa nữa chứ.
Tìm đến tượng đài Tổ quốc ghi công. Rồi như Trưởng phòng hướng dẫn, tôi thấy ngay ngôi mộ của Thanh. Tôi quỳ xuống ôm lấy ngôi mộ đã xây cất có bia rất đẹp. Tôi vội chụp mấy tấm ảnh, cả tấm ảnh tự chụp tôi đang ôm mộ Thanh mà khóc. Tôi đốt bó hương cắm lên mộ, ngọn lửa bùng lên sáng trắng, bốc cao, khói hương bay cả một vùng như người ta vẫn gọi là hóa. Tôi thắp tiếp cho nhiều ngôi mộ xung quanh.
Bất giác tôi cảm thấy rất linh thiêng, nước mắt trào ra, tôi lầm rầm cầu khấn: “Thế là tao đã tìm được mày rồi, chậm một chút nhưng đỡ áy náy. Nếu mày không hy sinh ở đây, dù đã qua 8 năm cầm súng, chỉ còn 2 tiếng nữa thôi thì chiến tranh kết thúc, chắc gì tao còn được sống mà đi tìm mày. Mày bị đạn khi Dương Văn Minh vào dinh Độc Lập tuyên bố đầu hàng, cũng là lúc tao và đồng đội đang tập trung ở Sư đoàn Dù tận Lục Ngạn, Bắc Giang, chờ lên máy bay chở vào bổ sung cho mặt trận. Nếu Dương Văn Minh không đầu hàng, quân Ngụy cầm cự thêm vài ngày nữa, nếu mày không chết, chắc chắn bọn tao phải vào và... không biết thế nào”.
Thế là tôi đã tìm được Thanh. Mấy tháng sau chúng tôi đưa được anh ấy về nghĩa trang quê nhà xã Nam Cường để tiện hương khói.
Lê Đình Cúc
2 đã tặng
2
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...