Thứ hai, ngày 23 tháng 06 năm 2025
04:54 (GMT +7)

Cố gắng để viết, nói về Bác Hồ chính xác nhất có thể

Đối với những Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù đã đi xa song người đời sau không chỉ học, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách mà còn nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp. Những gì gắn với các vĩ nhân như Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là những thông tin thú vị. Tuy nhiên hiện có một số nội dung, sự kiện xung quanh cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nói, viết chưa thật sự chuẩn xác.

Tượng đài Nguyễn Sinh Sắc - Nguyễn Tất Thành tại Quảng trường trung tâm Thành phố Quy Nhơn. Nguồn: binhdinh.gov.vn
Tượng đài Nguyễn Sinh Sắc - Nguyễn Tất Thành tại Quảng trường trung tâm Thành phố Quy Nhơn. Nguồn: binhdinh.gov.vn

1. Ở Quảng trường Thành phố Quy Nhơn, Bình Định hiện nay có bức tượng cha con cụ Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Tất Thành. Vì sao lại có bức tượng ấy ở Quy Nhơn? Bức tượng ấy gắn với một sự kiện là khi cụ Nguyễn Sinh Sắc được bổ làm Tri huyện Bình Khê (huyện Tây Sơn ngày nay) của Bình Định, cụ đã đem con trai của mình là Nguyễn Tất Thành gửi cho một người bạn của cụ là nhà giáo Phạm Ngọc Thọ để học thêm về tiếng Pháp. Nhà giáo Phạm Ngọc Thọ là cha đẻ của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Bộ Y tế sau này.

Bây giờ, thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe, vẫn đọc thấy nói Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo. Thực ra viết như vậy chưa hẳn đã sai song không thật sự chính xác. Bác Hồ đâu chỉ sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, Người thật sự sinh ra trong một gia đình đại trí thức với cha là mệnh quan của triều đình.

Lịch sử khoa cử nho học Việt Nam bắt đầu kể từ khoa thi năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh thứ 4 triều Lý Nhân Tông (năm 1075) và kết thúc vào năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ 4 triều Nguyễn (năm 1919). Trong khoảng thời gian gần 850 năm ấy, cả nước chỉ có hơn 2 nghìn 8 trăm người đỗ từ Phó bảng trở lên, trong đó có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khoa thi năm Tân Sửu, niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1901), triều đình lấy đỗ 7 Tiến sĩ và 13 Phó bảng. Vị Phó bảng đứng thứ 11 trong danh sách là Nguyễn Sinh Huy, tức cụ Nguyễn Sinh Sắc, vị Phó bảng đứng thứ 13, cuối bảng là cụ Phan Chu Trinh (có lúc gọi Phan Châu Trinh). Cụ Phan Châu Trinh là ông ngoại của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Trước khi Nguyễn Tất Thành xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước, cha của người đã dẫn Người xuống Mỹ Tho, nơi cụ Phan Châu Trinh đang ở đó để gửi gắm con trai của mình cho cụ Phan. Trong khoa cử nho học Việt Nam, những ai đỗ từ Phó bảng trở lên được gọi là đỗ đại khoa của triều đình.

2. Trong một số bài viết hoặc thỉnh thoảng chúng ta vẫn nghe nói cụ Nguyễn Sinh Sắc bị "đày đi làm Tri huyện" Bình Khê (Bình Định) vào năm 1909. Thậm chí thông tin tổng quan do AI tạo ra trên Google hiện nay cũng tổng hợp và ghi như vậy. Đó là cách nói không chuẩn xác.

Phủ phụ chính triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ Hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ Lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ Lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ Công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ Học). Ảnh Tư liệu lịch sử
Phủ phụ chính triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ Hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ Lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ Lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ Công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ Học). Ảnh Tư liệu lịch sử

Trước khi được bổ làm Tri huyện Bình Khê, cụ Nguyễn Sinh Sắc làm Hành tẩu ở Bộ lễ. Trong quan chế của triều đình xưa, “hành tẩu” là một chức quan nhỏ không có chuyên nhiệm, không có phân cấp bậc, chỉ làm các công việc phục vụ trong các văn phòng ở các bộ, viện, giống như người phụ trách văn thư lưu trữ hiện nay. Tri huyện là cấp bậc quan lại ở địa phương, đứng đầu một huyện với hàng “bát phẩm”. Dù lương bổng Tri huyện không phải là cao song cũng không đến nỗi thấp. Chức vụ Tri huyện xưa cũng không thể so sánh ngang hàng như chủ tịch UBND huyện hiện nay bởi thẩm quyền của tri huyện xưa rất lớn, rất rộng. Tri huyện xưa coi sóc tất cả mọi việc của địa hạt được giao phụ trách từ an ninh, trật tự, chính trị, xã hội, binh lương, thuế khóa, phong hóa, giáo dục; trực tiếp giải quyết các vụ kiện cáo do cấp dưới trình lên; tróc nã tội nhân, bắt cướp; trực tiếp đôn đốc việc phu phen, tạp dịch v.v.. Vì vậy nên tri huyện xưa được gọi là “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân).

3. Khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành đã kết thân với rất nhiều các nhân vật nổi tiếng của nước Pháp. Tất nhiên, Nguyễn Tất Thành phải có một bộ óc thông minh, một kiến thức vững vàng, một vốn sống phong phú mới có thể làm quen, trao đổi và kết thân với những nhân vật nổi tiếng trong chính giới của nước Pháp.

Thế nhưng rõ ràng có một phần rất quan trọng từ sự dẫn dắt ban đầu của cụ Phan Châu Trinh. Trong bài viết “Phan Châu Trinh ở Mỹ Tho” của tác giả Phan Thị Minh, cháu nội cụ Phan đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 4, năm 1995 có đoạn viết: “…Anh Vũ Kỳ là thư ký riêng của Bác Hồ đã xác nhận lời Bác phát biểu về cụ Phan Châu Trinh: “Mình biết cụ từ trong nước rất sớm và cụ là bạn thân của cha mình, lúc đi Pháp là dựa vào cụ, ở Pháp cũng dựa vào cụ để sống và hoạt động”. Nội dung này được ông Vũ Kỳ nói ngày 2/3/1993, có chứng kiến và xác nhận của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Khi ở Pháp, Nguyễn Tất Thành gần gũi cụ Phan Châu Trinh nên ngày 19/6/1919, thay mặt Hội (có lúc gọi là nhóm) những người An Nam (Việt Nam) yêu nước, Người đã gửi tới Hội nghị Versailles Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam, còn gọi là “Yêu sách của nhân dân An Nam” (tiếng Pháp: Revendications du peuple annamite). Thỉnh nguyện thư này được ký tên Nguyễn Ái Quốc. Khi ấy, Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp có 3 nhân vật chủ chốt là cụ Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành (có tài liệu viết nhóm này có Nguyễn Thế Truyền; cũng có tài liệu nói có Nguyễn An Ninh. Vì các thông tin này chưa có kết luận cuối cùng nên bài viết chỉ liệt kê 3 tên tuổi đã rõ theo Sách: 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do Ban Tuyên giáo Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành). Theo đó, sáng kiến để viết bản yêu sách này là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành. Người chắp bút bằng tiếng Việt là Nguyễn Tất Thành và người dịch sang tiếng Pháp là Phan Văn Trường. Nhóm đã thống nhất giao cho Nguyễn Tất Thành ký. Theo chủ ý của nhóm là: “Dùng một cái tên gì tiêu biểu cho nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng phải là tên một cá nhân thì tính chất pháp nhân của văn bản mới có giá trị. Cuối cùng anh Nguyễn quyết định tự mình đứng mũi chịu sào với cái tên chung cho tấm lòng của mọi người. Anh ký: Thay mặt nhóm những người yêu nước An Nam: NGUYỄN ÁI QUỐC”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Lớp đào tạo cán bộ mật mã Lê Lai tại rừng Bản Cọ, Yên Thông (nay là xã Bình yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên), năm 1950. Ảnh tư liệu lịch sử
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Lớp đào tạo cán bộ mật mã Lê Lai tại rừng Bản Cọ, Yên Thông (nay là xã Bình yên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên), năm 1950. Ảnh tư liệu lịch sử

Như vậy, cái tên Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên từ khi Nguyễn Tất Thành đặt tên ký Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Versailles ngày 18/6/1919. Tên Nguyễn Ái Quốc lúc ban đầu là tên của một nhóm người và sau này đã được Nguyễn Tất Thành lấy làm tên trong một giai đoạn hoạt động cách mạng của Người.

4. Sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đặt chân lên Tổ quốc thân yêu để từ đây lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân, đế quốc, xây dựng đất nước.

Năm 1960, nhà thơ Chế Lan Viên viết bài thơ “Người đi tìm hình của Nước”, với sự mẫn cảm của một thi nhân, trên nền của cảm xúc rưng rưng tự hào cùng với lòng biết ơn chân thành đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cộng với những suy tưởng sâu sắc về hành trình ra đi, trở về trong quá trình tìm đường cứu nước của Bác Hồ, nhà thơ đã viết bài thơ với 2 câu thơ cuối: “Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất/ Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai”.

Từ 2 câu thơ này của nhà thơ, đâu đó chúng ta vẫn nghe thấy có những phát ngôn rằng khi về nước Bác Hồ đã cầm nắm đất lên hôn. Thực ra nhà thơ không nói Bác Hồ cầm nắm đất lên hôn, nhà thơ viết “bóng Bác đang hôn lên hòn đất”, “bóng Bác” chứ không phải là Bác hôn, đó là nhà thơ đang sử dụng hình tượng nghệ thuật để diễn tả cảm xúc của Bác Hồ khi người đặt chân lên đất mẹ thân yêu.

Xin nhớ cho rằng nhà thơ viết thơ, mà thơ thì sử dụng hình tượng nghệ thuật, đừng lẫn lộn thơ ca với lịch sử.

5. Tấm hình Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 được nhiều cơ quan báo chí sử dụng hiện nay là tấm hình Bác mặc áo 4 túi có nút thắt sát cổ cũng là không đúng. Hôm đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí minh mặc vét, chỉ có điều Bác không đeo cà vạt.

Khi Người đọc Tuyên ngôn Độc lập, có một người đứng phía sau cầm ô che cho Bác, đó là ông Chu Đình Xương, Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ (khi ấy Công an Bắc Bộ gọi là “Liêm phóng”, tức là Giám đốc Công an toàn miền Bắc. Ở Trung Bộ khi ấy lực lượng Công an được gọi là Sở Trinh sát còn ở Nam Bộ có tên gọi là Quốc gia tự vệ cuộc). Tất nhiên, có thể góc chụp khác nhau nên có hình không có người cầm ô phía sau Bác nhưng áo Bác mặc thì không thay đổi.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu lịch sử
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu lịch sử

Thực ra bây giờ nhiều người vẫn nói rằng Lễ Quốc khánh 2/9/1945 diễn ra vào buổi sáng, đó là không chính xác bởi buổi lễ đó diễn ra vào buổi chiều. Sở dĩ nhiều người nghĩ buổi lễ ấy diễn ra buổi sáng bởi vì đọc bài thơ “Sáng mồng Hai tháng Chín) của nhà thơ Tố Hữu. Nhà thơ Tố Hữu trong ngữ cảnh này ông đang viết thơ, không phải viết lịch sử. Sự ra đời của một đất nước bao giờ cũng là khởi đầu tốt đẹp nên ông sử dụng hình tượng nghệ thuật và viết “sáng”, còn viết “chiều” là nhiệm vụ của người viết sử…

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhiều năm song chắc chắn thế hệ sau không chỉ học, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người mà còn tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của Người. Để việc học và làm theo Bác ngày càng hiệu quả, thiết thực thì những thông tin xung quanh cuộc đời, sự nghiệp của người càng chính xác bao nhiêu sẽ càng tốt bấy nhiêu. Vì vậy, những thông tin về Người cần cố gắng để viết, nói chính xác nhất có thể.

Vũ Trung Kiên

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy