Thứ sáu, ngày 06 tháng 06 năm 2025
15:26 (GMT +7)

Bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam

VNTN- Ngày 5/6/1911, tại thành phố Sài Gòn, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam khi những con đường cứu nước của các bậc tiền bối hoàn toàn thất bại. Sau 13 năm đi nhiều quốc gia và các châu lục, bắt gặp “cẩm nang thần kỳ” là Chủ nghĩa Mác - Lênin, ngày 11/11/1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, Trung Quốc. Tại đây, Người đã bắt đầu chuẩn bị mọi mặt về tư tưởng, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời một tổ chức đảng cách mạng Việt Nam.

Di tích trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lưu giữ nhiều bức ảnh và tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà hoạt động cách mạng tiền bối. Nguồn: htv.com.vn
Di tích trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lưu giữ nhiều bức ảnh và tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà hoạt động cách mạng tiền bối. Nguồn: htv.com.vn

Lịch sử cách mạng Việt Nam có những sự trùng hợp thật kỳ lạ: Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức cách mạng đầu tiên của những người theo đường lối cộng sản ra đời tại Quảng Châu, Trung Quốc; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tại Hương Cảng (Hồng Kông, Trung Quốc); Đại hội lần thứ Nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam (khi ấy mang tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc.

Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 và đến năm 1919 tại Pháp, thay mặt Hội (có lúc gọi là nhóm) những người An Nam (Việt Nam) yêu nước, đã gửi tới Hội nghị Versailles Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam, còn gọi là “Yêu sách của nhân dân An Nam” (bản tiếng Pháp viết là: Revendications du peuple annamite). Thỉnh nguyện thư này được ký tên Nguyễn Ái Quốc.

Khi thay mặt ký gửi bản yêu sách này của nhân dân An Nam, Nguyễn Tất Thành vẫn chưa thật sự bắt gặp Chủ nghĩa Mác - Lênin dù trước đó hơn 2 năm, Cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại theo con đường của Lênin đã thành công ở nước Nga, đã “biến người nô lệ thành người tự do”. Nhắc lại chi tiết này để thấy rằng tìm con đường đi cho một con người, một cuộc đời đã rất khó khăn, nói gì đến việc tìm đường đi cho cả một dân tộc.

Tháng 7/1920, khi đọc được Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc mới xác định rõ con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, đó là “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, dưới sự chỉ lối, đưa đường của một hệ tư tưởng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy những chỉ dẫn cho con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam.

Lịch sử đôi khi có những câu chuyện thật thú vị mà câu chuyện Nguyễn Ái Quốc đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 là một trong những câu chuyện ấy. Tháng 12/1920, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã cùng một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một thanh niên ở một nước thuộc địa, Nguyễn Tất Thành quyết định đi sang chính đất nước đang đô hộ dân tộc mình.

Sở dĩ Nguyễn Tất Thành quyết định đi sang nước Pháp, một nước đang đô hộ Việt Nam bởi lý do mà sau này Người đã kể lại với nhà thơ Nga nổi tiếng O.E. Mandelstam vào năm 1923: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Từ câu tuyên ngôn nổi tiếng ra đời trong cách mạng Pháp ấy, Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi sang nước Pháp để xem ẩn đằng sau câu khẩu hiệu nổi tiếng ấy là gì? Tại sao một quốc gia có những con người vĩ đại, những người đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại và cho ra đời câu tuyên ngôn nổi tiếng ấy lại cũng chính là quốc gia của những người đang cai trị và bóc lột tàn tệ nhân dân của Người. Liệu những người Pháp ở chính quốc có khác những những người Pháp thực dân ở Đông Dương khi ấy?

Với sự kiện đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc không chỉ trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên mà còn là dấu mốc khởi đầu của bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam sau đó. Từ một thanh niên ở một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc lại là người đồng sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, một chính đảng rất mạnh và đã có nhiều ủng hộ thiết thực cho cách mạng Việt Nam sau này.

Di tích Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại số nhà 248 và 250 ở đường Văn Minh, quận Việt Tú, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Nguồn: baotanghochiminh.vn
Di tích Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại số nhà 248 và 250 ở đường Văn Minh, quận Việt Tú, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Nguồn: baotanghochiminh.vn

Năm 1922 cũng tại Pháp, có một thanh niên Trung Quốc đang hoạt động ở nước Pháp là Chu Ân Lai, vị Thủ tướng đáng kính của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa sau này. Tại nước Pháp, Chu Ân Lai đã làm quen với Nguyễn Ái Quốc và được Người bồi dưỡng, giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp rồi sinh hoạt cùng chi bộ với Nguyễn Ái Quốc. Sau này, khi nhắc lại những kỷ niệm đối với Hồ Chí Minh, Chu Ân Lai đã nói: “Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt tôi trong những bước đầu tiên tham gia công tác cách mạng. Người đã giới thiệu một số đồng chí chúng tôi vào Đảng Cộng sản Pháp. Lúc đó tôi thường tới gặp Người ở ngõ hẻm Côngpoanh tại khu La tinh. Người sống rất thanh đạm, giản dị, nhưng sự hiểu biết của Người rộng lớn, sự hoạt động của Người thật phong phú. Người biết nhiều tiếng nước ngoài. Đạo đức, trí tuệ của Người như một thanh nam châm, cuốn hút, hấp dẫn chúng tôi, những thanh niên mới bước vào con đường cách mạng...”.

Từ nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm và bằng tài năng thiên bẩm của mình, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận rằng phải tiến hành cách mạng vô sản theo con đường của Lênin mới có thể giải phóng được dân tộc, muốn vậy phải có một chính đảng mác-xít ở Việt Nam.

Trước khi lên tàu rời Paris vào tối ngày 13/6/1923 để qua Đức và sang Liên Xô, trong bức thư gửi những người bạn cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ mục đích của mình: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.

Trong thời gian ở Moskva, Người đã tiến hành nhiều hoạt động để chuẩn bị cho hành trình đến Trung Quốc, Người đã liên hệ với cách mạng Trung Quốc nhằm nắm vững tình hình, tranh thủ mọi liên hệ và giúp đỡ.

Thực hiện mong muốn, khát vọng ấy và được sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, ngày 11/11/1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rời Thủ đô Moskva đến Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy trên danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch trong Phái bộ của cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Quốc dân Đảng của lãnh tụ Tôn Trung Sơn.

Từ đây, Quảng Châu - Trung Quốc trở thành nơi ươm mầm của cách mạng Việt Nam.

Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc bởi nơi đây, từ năm 1923 đã được chọn làm Thủ đô của Chính phủ Tôn Trung Sơn. Bởi vậy, đây là nơi quy tụ nhiều nhà cách mạng Việt Nam và thế giới.

Những năm 1923 - 1927, Quảng Châu là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn ở miền Nam Trung Quốc. Không chỉ là nơi tập trung đông đảo các nhà cách mạng Trung Quốc và nhiều nước, trong đó có Việt Nam, Quảng Châu còn có bến cảng thông thương quốc tế, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho sự liên lạc giữ trung tâm cách mạng này với các phong trào cách mạng bên trong đất nước Việt Nam.

Tháng 1/1924, tại Quảng Châu, Quốc dân Đảng Trung Quốc tổ chức Đại hội lần thứ Nhất và tuyên bố thực hiện chủ nghĩa Tam Dân mới của Tôn Trung Sơn với ba chính sách lớn: liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ công nông; tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô, cải tổ Quốc dân Đảng với sự giúp đỡ của đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới.

Đây được xem là quyết định vô cùng quan trọng và có tác tác động rất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam. Như vậy là ngay những năm cuối đời mình, lãnh tụ Quốc dân Đảng Trung Quốc - Tôn Trung Sơn đã ngả về phía những người cộng sản và quyết định liên hiệp với nước Nga xô viết, liên hiệp với những người Cộng sản. Tiếc thay sau khi ông mất, một thuộc cấp của ông là Tưởng Giới Thạch và cũng là anh em cọc chèo của ông đã phản lại đường lối này. Thật may mắn, lãnh tụ Tôn Trung Sơn còn có điểm an ủi lớn, đó là phu nhân của ông, bà Tống Khánh Linh, Chủ tịch danh dự nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã suốt đời thực hiện ước nguyện của chồng, trọn đời đi với cách mạng vô sản Trung Quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dắt tay một em bé trong chuyến thăm Trung Quốc (Ảnh tư liệu lịch sử)
Chủ tịch Hồ Chí Minh dắt tay một em bé trong chuyến thăm Trung Quốc (Ảnh tư liệu lịch sử)

Cũng chính tại Quảng Châu, Trung Quốc, vào năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã quen biết bà Tống Khánh Linh khi đó là vợ và là cộng sự đắc lực của lãnh tụ Quốc dân Đảng - Tôn Trung Sơn. Nhờ tình bạn này mà sau này bà Tống Khánh Linh đã giúp Bác Hồ thoát khỏi tình cảnh ngặt nghèo trên con đường hoạt động cách mạng. Sau này, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc, vừa bước xuống cầu thang máy bay, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tống Khánh Linh ra đón đoàn. Hôm ấy trời mưa, Hồ Chủ tịch đã tiến lại, lấy chiếc mũ trên đầu mình đội lên đầu bà Tống Khánh Linh và cảm động nói: “Bà đội để khỏi ướt đầu. Năm 1933, ở Thượng Hải, tôi hết tiền, bắt liên lạc với đoàn thể không được, nếu không được phu nhân giúp đỡ thì thật là khó khăn...”.

Không chỉ chủ nghĩa Tam Dân mới mà cả chủ nghĩa Tam Dân: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc mà lãnh tụ Tôn Trung Sơn đề xuất đã có ảnh hưởng và tác động lớn với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Có lẽ vì vậy mà sau này Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội… Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.

Chính chủ nghĩa Tam dân mới với rất nhiều những điểm tiến bộ và phù hợp với xu thế của thời đại, của lịch sử nên Nguyễn Ái Quốc nhận thấy “thích hợp với điều kiện của nước ta hiện nay”.

Sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ mà phần lớn trong số họ là những thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Có lẽ vì vậy chúng ta không khó để nhận ra rằng những nhà cách mạng lớp đầu tiên ấy của đất nước phần lớn là trí thức. Là trí thức, họ có thuận lợi là biết tiếng Pháp mới dễ dàng tiếp nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin vốn khi ấy đa phần được viết bằng tiếng Pháp để truyền về trong nước. Những học viên này sau khi học xong đã “bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân”. Một số thành viên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi sang học tại Trường Đại học Phương Đông ở Moskva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc)…

Tại Quảng Châu, Trung Quốc vào năm 1923 đã có một tổ chức của những thanh niên Việt Nam yêu nước được thành lập, đó là Tâm Tâm Xã với những thanh niên trí thức như: Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lâm Đức Thụ... Tâm Tâm Xã chủ trương: "Liên hiệp những người có tri thức trong toàn dân Việt Nam, không phân biệt ranh giới, đảng phái; miễn là có quyết tâm hi sinh tất cả tư ý và quyền lợi cá nhân, đem hết sức mình tiến hành mọi việc để khôi phục quyền làm người của người Việt Nam". Khi ở Quảng Châu, Trung Quốc, tháng 2/1925, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn, giác ngộ một số thanh niên tích cực trong tổ chức Tâm Tâm , lập ra Cộng sản đoàn, trong đó có: Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quang Đạt, Lâm Đức Thụ.

Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quần chúng rộng rãi hơn, đó chính là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là đội tiền phong cách mạng của dân chúng Việt Nam, nhằm “tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và tụi chó săn của chúng nó mà tự cứu lấy mình. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hội là Tổng bộ, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Trụ sở của Tổng bộ đặt tại Quảng Châu. Để có một cơ quan tuyên truyền của tổ chức, ngày 21/6/1925, tuần báo Thanh niên, cơ quan trung ương của Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra số đầu tiên. Ngày 21 tháng 6 hàng năm đã được lấy làm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam chính từ sự kiện này. Kể từ khi ra đời, trong giai đoạn giữa năm 1925 đến trước tháng 4/1927, Hội đã tổ chức được nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau đó đã được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường kách mệnh (năm 1927).

Ngày 21/6/1925, Báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập và phát hành số 1. Ảnh tư liệu
Ngày 21/6/1925, Báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập và phát hành số 1. Ảnh tư liệu lịch sử

Khi trả lời một nhà văn người Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Trước khi ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã khẳng định chỉ muốn đi nước ngoài xem người ta làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình. Năm 1941, sau hành trình “ba mươi năm ấy chân không mỏi” (Tố Hữu), Nguyễn Ái Quốc đã về đến Tổ quốc để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Người, đã có nhiều địa danh đã gắn với Người, song Quảng Châu, Trung Quốc, nơi Người lựa chọn, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một địa danh, một dấu ấn đặc biệt.

Hồng Phúc

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy