Thứ bảy, ngày 21 tháng 09 năm 2024
12:31 (GMT +7)

Trường ca “Lửa Hồ” của Hoàng Cầm

Phụ Lục

VNTN - Rất có thể, sau 72 năm nằm trong cuốn sổ ghi cảm tưởng nơi căn cứ cách mạng, trường ca “Lửa Hồ” ký tên tác giả Hoàng Cầm lần đầu tiên được công bố trên báo chí, lại ở “Văn nghệ Thái Nguyên” một tờ báo văn nghệ địa phương - nơi năm xưa nằm trong Thủ đô Kháng chiến chống Pháp. Và như vậy cũng có nghĩa, tác giả Hoàng Cầm đã sáng tác trường ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, duy nhất một bản…

Về một tư liệu lịch sử độc đáo

15 năm trước, khi tôi đang làm Tổng Biên tập Báo Thái Nguyên. Một buổi sáng, phòng tôi có hai vị khách quý tới thăm, đó là ông Đinh Quang Ấn, nguyên Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy và ông Phạm Tất Quynh, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh. Hai ông mang đến một tài liệu, cũng là kỷ vật cực kỳ quý, với lời đề nghị tôi nghiên cứu và tổ chức tuyên truyền… Đó là một cuốn sổ bìa cứng khổ 20x30cm, gáy bọc vải, các trang ruột là loại giấy giang bình thường. Tất nhiên cuốn sổ đã ngả mầu thời gian, bong tróc nhiều chỗ. Đó chính là cuốn sổ ghi những dòng lưu bút của những người qua đây để lên chiến khu hay từ chiến khu về xuôi. Chúng tôi thống nhất đặt tên cho tài liệu là “Thái Nguyên qua một tư liệu lịch sử độc đáo”, tôi giữ bản phô tô, còn ông Quynh giữ bản gốc (sau này ông Quynh đã gửi lại Thư viện tỉnh Thái Nguyên để lưu giữ tại đây)… Về phần tôi, 15 năm kể từ khi tiếp cận tài liệu, đã hơn một lần giới thiệu khái quát trên báo Nhân Dân và Đài Truyền hình Quốc gia...

Trở lại với cuốn số lưu niệm, sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ATK Thái Nguyên là vùng căn cứ để lãnh đạo cách mạng của Đảng, Chính phủ. Thị xã tỉnh lỵ Thái Nguyên thực hiện tiêu thổ kháng chiến một cách triệt để. Trên đống đổ nát, Ủy ban Hành chính Kháng chiến đã lập trụ sở dã chiến, trạm đón tiếp cán bộ, bộ đội qua lại chiến khu. Cuốn sổ lưu niệm ghi cảm tưởng được lập ra - một sáng kiến rất lãng mạn cách mạng. Từ Tổng Bí thư Trường Chinh, đến Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng nhiều cán bộ, nhân sĩ, văn nghệ sĩ qua đây vào những năm 1947 - 1951 đều để lại lưu bút… Ngủ lại một đêm (7/5/1948), Tổng Bí thư Trường Chinh viết: “Ủy ban Hành chính thị xã có nhiệm vụ rất nặng nề. Làm sao cho nó xứng đáng với vai trò một đội du kích canh gác cửa ngõ Việt Bắc và là một nhân viên tiếp tế cho cả ngược và xuôi”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì ghi: “Từ Khu Giải phóng Việt Bắc đến Thủ đô Hà Nội; từ ngày khởi chiến đến đại thắng Việt Bắc, Thái Nguyên đã có một địa vị quan trọng. Từ Việt Bắc đại thắng đến toàn quốc đại thắng, Thái Nguyên nhất định có một địa vị quan trọng, dân chúng Thái Nguyên gắng lên” (19/6/1948). Ông Lê Quang Đạo, Bí thư Thành bộ Việt Minh Hà Nội (sau này là Trung tướng, Bí thư Trung ương Đảng) cảm xúc: “Hôm nay qua đất Thái Nguyên là một dịp để được biết tinh thần kháng chiến của nhân dân trên đống gạch hoang tàn…”. Và hơn 50 lưu bút khác cũng hết sức có ý nghĩa, ngặt nỗi trong khuôn khổ một bài báo tôi không thể trích dẫn hết được…

Trường ca “Lửa Hồ” và đôi điều suy nghĩ

Trong cuốn sổ này có một trường ca mang tên “Lửa Hồ” gồm 178 câu thơ viết tay trên 9 trang giấy, đề ngày 5/4/1948, ký tên Hoàng Cầm. Với âm hưởng chủ đạo là ca ngợi con người, lý tưởng, nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác giả phác họa việc tìm hình hài đất nước và ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc của Bác. Và khẳng định, Người luôn là ngọn lửa soi đường cho dân tộc đi qua đêm trường nô lệ… Trường ca được trình bày đẹp, tác giả trực tiếp vẽ minh họa và lời đề tặng đồng chí Thắng(1).

15 năm qua, tôi đã để tâm tìm trên các báo và tạp chí, nhưng chưa thấy bài thơ này được đăng tải, kể cả việc tìm hiểu tác giả bài thơ là Hoàng Cầm, với một niềm tin rằng tác giả bài thơ Bên kia sông Đuống với Hoàng Cầm - tác giả Lửa Hồ là một…

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thành lập Nước (2/9/1945 - 2/9/2020), tôi nghĩ đây là dịp thích hợp để giới thiệu bài thơ. Và tôi coi đây là một đóng góp nhỏ cho trang lịch sử kháng chiến nói chung, cho mảnh đất Thái Nguyên anh hùng nói riêng… Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Hữu Minh

 

Lửa Hồ

“Nguồn ánh sáng Hồ Chí Minh”

Hồ Chí Minh không phải là một người.

Hồ Chí Minh là Ngọn Lửa - Lửa sống

của Dân tộc và Nhân loại...

***

Có người đánh cá trên bờ biển

Chợt thấy bình minh lửa rực trời

Có bác phó rèn vung nhát búa

Sèo sèo gang sắt cạn mồ hôi

Từ đó sông dài nhắn núi cao

Đây nguồn ánh sáng đã xôn xao

Lúa vàng vùng dậy, dâng màu đất

Xóa vết xe trâu đẫm máu đào.

Nguồn lửa soi dần các ngõ sâu

Miền Nam xứ Bắc dịu lòng đau

Nụ cười nở giữa hai dòng lệ

Ánh sáng bừng tươi mảnh áo nâu

Hết vua rồi đến giặc

Gieo rắc nghìn thảm sâu

Những bóng quỷ đen tối

Càng đè nặng trên đầu

Dân ta càng đói rét

Xương vụn trắng đầu lâu

Lửa Hồ xa đất Việt

Bập bùng trên hoàn cầu

Năm năm gió thảm mưa sầu

Lửa Hồ lãng đãng nhịp cầu chênh vênh

Bao nhiêu tình thương xót

Ngần ấy ngày lênh đênh

Thuyền nan bốn bể dập dềnh

Lửa lên đầu thác, cuối ghềnh lửa thiêu.

***

Nhẫn nại chịu gian khổ

Cho đến một buổi chiều

Nguồn ánh sáng Hồ Chí Minh bừng đỏ

Trên giang sơn chưa sạch vết tiêu điều.

Cách mạng đã thành công

Chúng ta hết nô lệ

Lòng già như tuổi trẻ

Đầm trong ngọn lửa hồng

Dân ta đã đứng dậy

Lửa soi hồng cánh tay

Thắm tươi nét mặt ấy

Rắn chắc bàn tay này

Có bông, ta dệt vải

Có ruộng, ta cấy cày.

Hồ Chí Minh! Nguồn ánh sáng tràn đầy

Đã chia ra hai mươi triệu tia lửa:

Tôi có cây bút thơ,

Anh có bàn tay thợ,

Anh có lưỡi cày dài,

Anh có ngọn súng nhỏ,

Chị có gánh ngô khoai,

Chị có lều họp chợ,

Dù già trẻ, gái trai,

Ai cũng là đốm lửa…

Ấp trong lòng chan chứa

Nguồn sáng Hồ Chí Minh.

Hỡi người cấy lúa xinh xinh,

Lúa bao nhiêu ngọn, thương mình bấy nhiêu.

Hôm nay ngày mười chín

Tháng Năm, đang vụ hè

Chúng ta đang kháng chiến

Tôi đọc thơ, mình nghe

Đây ruộng mạ xanh biếc

Còn vết máu thằng Tây

Nó thua trận liên tiếp

Xác nó còn chôn đây.

Mình ơi! Nấm mộ cỏ gầy

Lửa Hồ đốt cháy, những ngày thảm thương.

Trên chiến trường Việt Bắc

Nổi gió loạn rừng thu

Lửa Hồ từng đám lớn

Thiêu tan quân giặc thù

Mé ơi! Noọng nhớ sông Lô

Một chiều loang loáng Lửa Hồ mênh mang

Vuông vắn bếp nhà sàn

Ngày đêm, lửa không tàn

Ông Ké đi gánh thóc

Slầu tập bắn trên ngàn

Mé ngồi kéo sợi tơ chàm

Lửa Hồ ấm áp đôi bàn tay khô

Ngoài kia, đường phá hoại

Hố dọc liền hố ngang

Xẻng cuốc đi kháng chiến

Đoàn người vui hát vang

Em ơi! Đường nát, cầu tan

Lửa Hồ ngăn gót bạo tàn tới đây!

Đường ruộng thành lối hẹp,

Ruộng nhỏ lấn thành to,

Đường đi thì chả đẹp

Những thêm đất giồng ngô

Chiều chiều sóng lúa lô xô

Ai nghe thấy ngọn lửa Hồ mọc cao?

Giữa đồng có quán ngói

Trong quán vui trẻ già

Làm ruộng xong vào đó

Ngồi học chữ nước nhà

Trưa hè, tiếng đọc ê a

Lửa Hồ nhắn gió vang ra cánh đồng.

Súng nổ gần đâu đó?

Đàn trẻ vẫn chơi đùa

Ai bắt chim đừng hót?

Ai bắt bướm đừng đua?

Gót chân díu díu lửa Hồ

Tiếng hoa, tiếng lá, tiếng mùa xuân reo.

Gần đây có xưởng thợ

Anh chị em vui tươi

Đúc súng đạn giữ nước

Thuốc súng thơm miệng cười

Diệt thù bằng giọt mồ hôi

Lửa Hồ tung khói về nơi chiến trường.

Ai chiến sĩ bị thương

Về nằm an dưỡng đường?

Lửa Hồ là ống thuốc

Thấm dần vào thịt xương

Hỡi anh, trời lạnh đẫm sương

Lửa Hồ sưởi ấm đêm trường quạnh hiu.

Bọn người hèn bán nước

Có mắt cũng như không

Càng gần lũ giặc cướp

Càng thêm ân hận lòng

Lửa Hồ gạn đục khơi trong

Sạch lầu tội lỗi, thong dong quay về.

Về rừng thiêng nước độc

Về thị thành tan hoang

Như gianh đua nhau mọc

Gồng gánh đua nhau sang

Ngày một, máy bay bắn,

Ngày hai, đạn nổ vang

Việc nó, nó cướp nước

Việc ta, ta cứ làm.

Ai ơi! Sức sống huy hoàng

Lửa Hồ vươn dậy, lại càng dẻo dai.

Trong vùng giặc chiếm đóng

Tối om như ngục tù

Chúng ta càng gắng sống

Mỗi làng một chiến khu

Nó tra tấn giết chóc

Nó bắt thuế, bắt phu

Tha hồ nó hiểm độc

Sắt vàng còn trơ trơ.

Đêm đêm những ngọn lửa Hồ

Rủ nhau đốt trại quân thù sạch không.

Những người lính Pháp nhìn theo lửa

Xúc động niềm riêng nước mắt ròng

Cha mẹ ngày thương nhớ

Vợ con ngày ngóng trông

Đi giết thuê cướp mướn

Nơi quê người uổng công

Bỗng dưng bừng tỉnh cơn mê cũ

Thấy lửa Hồ thiêng thấm thía lòng.

Khắp bốn phương thế giới

Bạn nghèo tha thiết mong

Ngày Việt Nam thắng lợi

Nhân loại chung một lòng

Năm châu rải rác tia hồng

Lửa Hồ đúc một chữ đồng nguy nga

***

Ngày nay chúng ta

Bữa rau, bữa cháo, tan cửa nát nhà

Xóm đông, tiếng khóc con lìa mẹ

Chợ bắc, lời than trẻ mất già

Thảm thiết bao nhiêu rồi cũng hết

Lửa Hồ đốt cháy cả hồn ma.

Cái vui, còn mãi mãi

Buồn thương, gió thoảng qua

Nụ cười kẻ chết khinh ly biệt

Vũng máu trồi lên những nụ hoa.

Chúng ta phải thắng trận

Mai sau về Thủ đô

Nghìn triệu tia ánh sáng

Chụm lại thành Lửa Hồ.

Lớp lớp cuộn sóng đỏ

Vang vang tung tiếng hô

Chói lọi đầu ngọn lửa

Ngôi sao vàng nhấp nhô.

Quanh lửa Hồ ta hát

Quanh lửa Hồ ta chơi

Nắm tay nhau mà khóc

Ôm chặt nhau mà cười.

Thôi nhé, chồng về với vợ ngoan

Bướm xanh trở lại với hoa vàng

Đàn con ríu rít thưa cùng mẹ

Đây lũ chim về giữa tổ hoang.

***

Khi toàn cõi Việt Nam

Không còn là ngục tối

Khi các nước thế giới

Là ánh sáng huy hoàng

Thì lửa Hồ yên lặng

Trở về lũy tre làng

Trên bờ biển xa vắng

Thủy triều reo vang vang

Lửa Hồ dần tan loãng

Trong nắng đẹp chiều vàng.

Tiếng cười lũ trẻ ròn tan

Có người chài lưới thênh thang trở về

Có nàng yếm thắm khăn the,

Có anh thợ sắt nằm nghe gió chiều

Trên trời xanh xanh ngắt

Vẫn mơ hồ tiếng tiêu…

Tháng 5 năm 1948

Năm mươi chín năm sau khi ngọn lửa Hồ xuất hiện

Hoàng Cầm

(1)Các nhà nghiên cứu lịch sử đã xác định, đó là đồng chí Đặng Đức Thắng, Chủ tịch Ủy ban Hành chính - Kháng chiến thị xã Thái Nguyên, chính là người lập ra cuốn sổ lưu bút (Ban Biên tập chú thích).

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Thơ dành cho các em nhân dịp Tết Trung thu

Xem tin nổi bật 4 ngày trước

Xin lỗi mùa thu

Thơ 6 ngày trước

Sau vũ hội

Thơ 1 tuần trước

Bên kia nỗi nhớ là làng

Thơ 1 tuần trước

Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh

Thơ 1 tuần trước

Thơ Nguyễn Đức Tùng

Thơ 1 tuần trước

Xin lỗi mùa thu

Thơ 1 tuần trước