Thứ năm, ngày 31 tháng 10 năm 2024
00:25 (GMT +7)

Tết Nguyên đán năm Bính Thân trong thơ Minh Mệnh

Mở đầu

Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) đã để lại một khối lượng thơ văn đồ sộ cho nền văn học Việt Nam. Về thơ Ngự chế có gần 4000 bài, về văn có hàng ngàn bài. Theo ý của vua Minh Mệnh, mặc dù làm thơ, văn nhiều, nhưng đa phần những thơ văn đó làm ra cốt để “ngâm ra để nói chí mình thôi”. Nhà vua đánh giá cao vai trò của thơ, cũng như thơ của đế vương: “Thơ là để rèn luyện linh tính còn hơn cái sở thích khác. Nhưng việc học của đế vương khác với thư sinh, dẫu trong khi ngâm vịnh, cũng có ngụ ý làm chủ nước, yêu nuôi dân. Nếu không thế, cũng là một văn sĩ thôi, thì có quý gì”(1).

Trong năm Bính Thân, theo sử sách ghi lại thì có nhiều việc liên quan đến những vấn đề trọng đại của đất nước, như vấn đề Hoàng Sa, vấn đề yên dân - những vấn đề được vua đặt lên trên hết. Khi nghe tin bách tính được mùa, cuộc sống no đủ, trộm cướp giảm bớt, vua vui mừng đích thân làm thơ để ghi lại. Có những bài thơ khai bút đầu năm đã nói lên ước muốn của vua Minh Mệnh về một năm mới đất nước được yên ổn, bách tính được an cư lạc nghiệp, quan lại trong ngoài đều siêng năng chức nghiệp của mình. “Mùa xuân năm nay, phúc lành liên tiếp. Các tỉnh tâu báo tin mừng giá gạo bình thường, trộm cướp yên lặng, trẫm rất mừng! Nghĩ đến phúc trời chồng chất, thực là có cơ thịnh trị. Nhưng cốt ở người cầm quyền thống trị chứ không cốt ở pháp luật thống trị. Lòng trẫm còn lấy làm lo. Mong rằng tôi con trong ngoài đều siêng năng chức nghiệp, để đạo thịnh trị ngày một tiến lên thật tốt. Trẫm bèn đem ý chính ấy làm thành bài thơ, cho khắc in son, ban cấp cho các ấn quan các nha ở Kinh và các đốc phủ, bố, án ở ngoài để mọi người đều biết ý trẫm”.

Liên quan đến vấn đề biển đảo, năm Bính Thân có lẽ là năm cắm mốc chủ quyền ở ngoài đảo Hoàng Sa, khi mà vua Minh Mệnh sai người mang theo 10 bài gỗ có ghi năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17. Trong năm Bính Thân (1836), vua Minh Mệnh cho người khảo sát đường đi biển để đến xứ Hoàng Sa. Bộ Công tâu nói : “Cương giới mặt biển nước ta có xứ  Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”.

Vua y lời tâu. Sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”(2)

Nhân dịp năm mới Bính Thân, chúng tôi xin giới thiệu vài bài thơ về năm Bính Thân và thơ viết trong tiết Nguyên đán của vua Minh Mệnh, qua những bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận và đánh giá thêm nỗi lòng của nhà vua đối với đất nước, với nhân dân. Bên cạnh đó, cũng là lời tâm sự của nhà vua cần phải răn mình để làm tròn trọng trách của người đứng đầu đất nước.

Một số bài thơ về năm mới và thơ năm Bính Thân của vua Minh Mệnh

Dưới đây là một số bài thơ do vua Minh Mệnh làm nhân dịp năm mới Bính Thân, những bài thơ này đa phần là ca ngợi cảnh xuân tươi đẹp, hồng đồ vững chắc, ca ngợi công đức của trời và từ đó để tự răn mình gắng sức trong công việc. Bên cạnh đó là sự quan tâm đến bách tính, thi ân huệ và ước mong năm mới sắc xuân sẽ tràn ngập đế đô. Từ đó hướng tới một năm mới báo hiệu điềm lành, đất nước ổn định, nhân dân được mùa.

元旦試筆 

暑往寒來歲復春

洪鈞一轉物華新

弘開壽宇昌家國

廣佈恩波沐兆民

訓迪官常圖內治

申明軍律靜邊塵

愈增昊眷心增悚

益殫孜孜自首辰

Phiên âm:

Nguyên đán(3) thí bút

Thử vãng hàn lai tuế phục xuân,

Hồng quân(4) nhất chuyển vật hoa tân.

Hoằng khai thọ vũ xương gia quốc,

Quảng bố ân ba mộc triệu dân.

Huấn địch quan thường đồ nội trị,

Thân minh quân luật tĩnh biên trần.

Dũ tăng hạo quyến tâm tăng tủng,

Ích đạn tư tư tự thủ thần.

Dịch nghĩa:

Làm thơ tết Nguyên Đán

Nóng qua lạnh tới mùa xuân lại về

Trời chuyển mùa muôn vật hoa cỏ tươi mới

Mở rộng cơ đồ quốc gia thịnh trị

Ban ơn rộng khắp thấm nhuần muôn dân

Dạy dỗ quan lại thường mong trong nước được yên ổn

Quân luật sáng rõ biên thùy vô sự

Trời cao quan tâm giúp đỡ lòng càng thêm sợ

Tự mình hết lòng chăm chăm gắng sức từ những ngày đầu năm.

(Ngự chế thi lục tập, Quyển 6, tờ 2)

丙 申 立 春 帖 子  Bính Thân lập xuân thiếp tử (tứ thủ)

Bài 1:

殘 冬 幾 盡 已 含 春

泰 運 弘 開 萬 象 新

兆 啟 文 明 年 在 丙

綏 將 福 履 自 天 申(5)

Phiên âm:

Tàn đông cơ tận dĩ hàm xuân,

Thái vận hoằng khai vạn tượng tân.

Triệu khải văn minh niên tại Bính,

Tuy tương phúc lí tự Thiên Thân.

Dịch nghĩa:

Mùa đông qua đi mùa xuân lại về,

Vận tốt mở ra muôn vật đổi mới.

Điềm lành đã ứng với năm sau, năm Bính Thân.

Phúc lành sẽ đến là do trời sắp đặt.

Bài 2:

宜 春 綠 字 寫 紅 箋

萬 彙 逢 春 分 外 妍

况 值 晴 明 和 煦 日

預 徵 開 歲 美 于 前

Phiên âm:

Nghi xuân lục tự tả hồng tiên,

Vạn vựng phùng xuân phận ngoại nghiên.

Huống trị tình minh hòa hú nhật,

Dự trưng khai tuế mĩ vu tiền.

Dịch nghĩa:

Hợp với mùa xuân lá cây xanh tốt, chữ viết trên giấy đỏ,

Vạn vật gặp mùa xuân hết sức tươi đẹp.

Huống gì gặp tiết trời tạnh ráo và tiết trời ấm áp,

Có thể dự đoán được điềm lành  năm tới sẽ được mùa lớn.

Bài 3:

青 旛 綵 勝 向 風 揚

惹 得 群 花 兢 吐 芳

艸 木 盡 知 春 是 好

東 皇(6) 何 苦 日 催 忙

Phiên âm:

Thanh phan thải thắng hướng phong dương,

Nhạ đắc quần hoa cạnh thổ phương.

Thảo mộc tận tri xuân thị hảo,

Đông hoàng hà khổ nhật thôi mang.

Dịch nghĩa:

Lá cờ thêu màu xanh phần phật tung bay trong gió,

Làm cho các loại hoa thi nhau tỏa hương thơm.

Tất cả cỏ cây biết mùa xuân thật là tốt,

Vị thần của mùa xuân sao phải vất vả ngày ngày gấp gáp bận rộn. 

Bài 4:

春 至 越 朝 方 進 宮

聲 喧 細 樂 爽 條 風

毋 嫌 倒 履 遲 迎 接

一 歲 相 逢 共 始 終

Phiên âm:

Xuân chí việt triều phương tiến cung,

Thanh huyên tế nhạc sảng điều phong.

Vô hiềm đảo lí trì nghênh tiếp,

Nhất tuế tương phùng cộng thủy chung.

Dịch nghĩa:

Xuân đến vượt qua sân trầu tiến vào cung điện,

Nghe như tiếng nhạc to nhỏ sảng khoái, gió thổi điều hòa.

Chớ có ngờ vực hãy quay lại  từ từ tiếp đón,

Một năm cùng gặp gỡ tất cả đều có trước có sau.

(Ngự chế thi lục tập,  Quyển 5, tờ 30-31)

丙 申 元 旦

開 韶 景 色 一 惟 新

運 啟 三 陽 淑 氣 勻

正 值 晴 和 千 事 好

咸 蒙 煦 育 萬 方 春

彬 彬 經 濟 盈 階 集

赳 赳 驍 雄 夾 陛 陳

首 祚 凝 祥 徵 善 歲

履 端 繁 祉 自 天 申(7)

Phiên âm:

Bính Thân nguyên đán 

Khai thiều cảnh sắc nhất duy tân,

Vận khải tam dương thục khí quân.

Chính trị tình hòa thiên sự hảo,

Hàm mông hú dục vạn phương xuân.

Bân bân kinh tế doanh giai tập,

Củ củ kiêu hùng giáp bệ trần.

Thủ tộ ngưng tường trưng thiện tuế,

Lí đoan phồn chỉ tự Thiên Thân.

Dịch nghĩa:

Tết Nguyên đán năm Bính Thân 

Cảnh sắc mùa xuân mở ra một màu tươi mới,

Vận mệnh mở mang khí lành đều phủ khắp.

Lại chính là lúc gặp trời quang đãng muôn việc tốt đẹp,

Tất cả đều cầu mong trời ấm áp để nuôi nấng vạn vật lúc nào cũng như mùa xuân.

Việc nước tốt đẹp tập hợp được đầy đủ văn võ bá quan,

Dáng vẻ vạm vỡ oai hùng xếp thành hàng trước sau bệ rồng

Đầu năm tốt đẹp điềm lành ngưng tụ báo hiệu năm được mùa

Đầu mối của phúc lộc là do trời sắp đặt.

(Ngự chế thi lục tập, Quyển 6 tờ 1)

除夕即步丙申詩原韻

將 屆 從 寅 轉 帝 車

前 臨 國 慶 復 今 如

萬 年 支 賴 萬 年 本

堯 莢 青 青 葉 不 除(8)

Trừ tịch tức bộ Bính Thân thi nguyên vận 

Tương giới tòng Dần chuyển Đế Xa,

Tiền lâm quốc khánh phục kim như.

Vạn niên chi lại vạn niên bổn,

Nghiêu giáp thanh thanh diệp bất trừ.

Đêm trừ tịch làm tiếp bài thơ về năm Bính Thân 

Sắp đến giờ Dần sao Bắc Đẩu chuyển ngôi,

Ngày quốc khánh trước kia ngày nay lại lặp lại.

Là cành của vạn năm phải dựa vào gốc vạn năm,

Cây đậu thời vua Nghiêu lá cứ xanh mãi.

Nguyên chú:

天 文 志 北 斗 為 帝 車 (Thiên văn chí Bắc đẩu vi Đế Xa),

Theo sách Thiên văn ghi sao Bắc Đẩu là Đế Xa.

(Ngự chế thi lục tập, Quyển 5, tờ 37- 38)

Giá trị nội dung của những bài thơ trên

Đầu năm mới, mong ước cho cả năm mọi điều đều tốt đẹp, đó là ước muốn của tất cả mọi người. Ngày đầu năm mới thật sự thiêng liêng để tỏ lòng thành kính với tổ tiên. Phong tục đầu năm mới, người xưa có lệ khai bút (viết chữ) đầu xuân. Ngày nay, nhiều gia đình vẫn còn gìn giữ được phong tục ấy.

Khai bút tức là mở bút, lấy bút ra viết hay làm một việc gì đó liên quan. Ngày xưa vì viết bằng bút lông nên việc khai bút là rất quan trọng, phải mài mực áo dài khăn xếp đốt hương trầm làm một bài thơ, một câu đối, một bài văn.  Các vua chúa xưa kia cứ đến ngày đầu năm mới là sẽ tự mình khai bút. Họ thường làm những bài thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm với tiêu đề như Nguyên đán thí bút, Tân Sửu thí bút…

Mùa xuân vua làm thơ với mong muốn nói lên những suy nghĩ của mình đối với bá quan bách tính. Sau một năm làm việc, tổng kết lại những sự được và chưa được để cho lòng gắng sức lên. Hơn nữa, qua lời thơ ấy, nhà vua như muốn cầu mong trời cao ban phước lành cho nhân dân. Nhà vua khẳng định, mọi điều phúc lộc là do trời sắp đặt, đầu năm có điềm lành ngưng tụ báo hiệu một năm được mùa bội thu.

Chú thích:

(1) Lời tựa Ngự chế thi sơ tập

(2) Ðại Nam thực lục, tập 4, trang 867.

(3) Ngày đầu năm nào cũng vậy, vua Minh Mệnh đều làm thơ với tiêu đề Nguyên đán thí bút. Theo lời vua thì: Ðầu năm sửa sang tế lễ, nguyên là để cầu phúc, mừng khắp cả thần và người.

(4) 指天: hồng quân tức là chỉ trời

(5) , (7) 自天申: tự thiên thân:  chữ ðược dùng trong Kinh Thi, và được sách Trung Dung dẫn lại trong chương thứ 17:

詩曰:嘉樂君子,憲憲令德。宜民宜人,受祿於天。保佑命之,自天申之。故大德者必受命: Thi viết:

Gia lạc quân tử, Hiến thiên lệnh đức. Nghi ân nghi nhân, Thụ lộc ý thiên. Bảo hựu mệnh chi, Tự thiên thân chi. Cố đại đức giả tất thụ mệnh. (Kinh Thi nói:  Vui thay người quân tử. Ðức tốt rạng rỡ. Ðược lòng dân và bá quan. Hưởng lộc của trời. Phù hộ và trao mệnh cho. Là do trời sắp đặt. Vì thế, người có đức lớn ắt nhận mệnh trời.)

(6)東 皇 Đông hoàng, tức春神(xuân thần) vị thần của mùa xuân

(8) 相傳帝堯殿前土階三尺,下生有蓂莢草。每逢初一,便一天生一片葉子;逢十五,則一天掉落一片葉子,依此循環不息。幼學瓊林·卷四·花木類 (Tương truyền Đế Nghiêu điện tiền thổ giai tam xích, hạ sinh hữu minh giáp thảo. Mỗi phùng sơ nhất, tiện nhất thiên sinh nhất phiến diệp tử; phùng thập ngũ, tắc nhất thiên trạo lạc nhất phiến diệp tử. Y thử tuần hoàn bất tức  - Ấu học Quỳnh Lâm, Quyển 4, Hoa mộc loại), Tương truyền trước điện Vua Nghiêu cách thềm 3 thước, có một cây cỏ Minh Giáp (cỏ may mắn). Mỗi lần gặp một lần thì một ngày mọc ra một lá, gặp lần thứ 15, thì ngày đó lá rụng hết, dựa vào điều này để nói về việc tuần hoàn vẫn diễn ra.

Tài liệu tham khảo

1. Minh Mệnh, Ngự chế thi lục tập, bản chữ Hán, A.134, Viện Nghiên cứu Hán Nôm

2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, bản dịch tập 4 (2004), Nxb Giáo Dục, HN.

Nguyễn Huy Khuyến

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy