Tết Nguyên đán năm Bính Thân trong thơ Minh Mệnh
Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) đã để lại một khối lượng thơ văn đồ sộ cho nền văn học Việt Nam. Về thơ Ngự chế có gần 4000 bài, về văn có hàng ngàn bài. Theo ý của vua Minh Mệnh, mặc dù làm thơ, văn nhiều, nhưng đa phần những thơ văn đó làm ra cốt để “ngâm ra để nói chí mình thôi”. Nhà vua đánh giá cao vai trò của thơ, cũng như thơ của đế vương: “Thơ là để rèn luyện linh tính còn hơn cái sở thích khác. Nhưng việc học của đế vương khác với thư sinh, dẫu trong khi ngâm vịnh, cũng có ngụ ý làm chủ nước, yêu nuôi dân. Nếu không thế, cũng là một văn sĩ thôi, thì có quý gì”(1).
Trong năm Bính Thân, theo sử sách ghi lại thì có nhiều việc liên quan đến những vấn đề trọng đại của đất nước, như vấn đề Hoàng Sa, vấn đề yên dân - những vấn đề được vua đặt lên trên hết. Khi nghe tin bách tính được mùa, cuộc sống no đủ, trộm cướp giảm bớt, vua vui mừng đích thân làm thơ để ghi lại. Có những bài thơ khai bút đầu năm đã nói lên ước muốn của vua Minh Mệnh về một năm mới đất nước được yên ổn, bách tính được an cư lạc nghiệp, quan lại trong ngoài đều siêng năng chức nghiệp của mình. “Mùa xuân năm nay, phúc lành liên tiếp. Các tỉnh tâu báo tin mừng giá gạo bình thường, trộm cướp yên lặng, trẫm rất mừng! Nghĩ đến phúc trời chồng chất, thực là có cơ thịnh trị. Nhưng cốt ở người cầm quyền thống trị chứ không cốt ở pháp luật thống trị. Lòng trẫm còn lấy làm lo. Mong rằng tôi con trong ngoài đều siêng năng chức nghiệp, để đạo thịnh trị ngày một tiến lên thật tốt. Trẫm bèn đem ý chính ấy làm thành bài thơ, cho khắc in son, ban cấp cho các ấn quan các nha ở Kinh và các đốc phủ, bố, án ở ngoài để mọi người đều biết ý trẫm”.
Liên quan đến vấn đề biển đảo, năm Bính Thân có lẽ là năm cắm mốc chủ quyền ở ngoài đảo Hoàng Sa, khi mà vua Minh Mệnh sai người mang theo 10 bài gỗ có ghi năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17. Trong năm Bính Thân (1836), vua Minh Mệnh cho người khảo sát đường đi biển để đến xứ Hoàng Sa. Bộ Công tâu nói : “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”.
Vua y lời tâu. Sai Suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”(2)
Nhân dịp năm mới Bính Thân, chúng tôi xin giới thiệu vài bài thơ về năm Bính Thân và thơ viết trong tiết Nguyên đán của vua Minh Mệnh, qua những bài thơ này, người đọc có thể cảm nhận và đánh giá thêm nỗi lòng của nhà vua đối với đất nước, với nhân dân. Bên cạnh đó, cũng là lời tâm sự của nhà vua cần phải răn mình để làm tròn trọng trách của người đứng đầu đất nước.
Dưới đây là một số bài thơ do vua Minh Mệnh làm nhân dịp năm mới Bính Thân, những bài thơ này đa phần là ca ngợi cảnh xuân tươi đẹp, hồng đồ vững chắc, ca ngợi công đức của trời và từ đó để tự răn mình gắng sức trong công việc. Bên cạnh đó là sự quan tâm đến bách tính, thi ân huệ và ước mong năm mới sắc xuân sẽ tràn ngập đế đô. Từ đó hướng tới một năm mới báo hiệu điềm lành, đất nước ổn định, nhân dân được mùa.
Phiên âm:
Ích đạn tư tư tự thủ thần.
Dịch nghĩa:
(Ngự chế thi lục tập, Quyển 6, tờ 2)
丙 申 立 春 帖 子 Bính Thân lập xuân thiếp tử (tứ thủ)
綏 將 福 履 自 天 申(5)
Phiên âm:
Tuy tương phúc lí tự Thiên Thân.
Dịch nghĩa:
Phúc lành sẽ đến là do trời sắp đặt.
預 徵 開 歲 美 于 前
Phiên âm:
Dự trưng khai tuế mĩ vu tiền.
Dịch nghĩa:
Có thể dự đoán được điềm lành năm tới sẽ được mùa lớn.
東 皇(6) 何 苦 日 催 忙
Phiên âm:
Đông hoàng hà khổ nhật thôi mang.
Dịch nghĩa:
一 歲 相 逢 共 始 終
Phiên âm:
Nhất tuế tương phùng cộng thủy chung.
Dịch nghĩa:
(Ngự chế thi lục tập, Quyển 5, tờ 30-31)
履 端 繁 祉 自 天 申(7)
Phiên âm:
Lí đoan phồn chỉ tự Thiên Thân.
Dịch nghĩa:
(Ngự chế thi lục tập, Quyển 6 tờ 1)
堯 莢 青 青 葉 不 除(8)
Cây đậu thời vua Nghiêu lá cứ xanh mãi.
Nguyên chú:
(Ngự chế thi lục tập, Quyển 5, tờ 37- 38)
Giá trị nội dung của những bài thơ trên
Đầu năm mới, mong ước cho cả năm mọi điều đều tốt đẹp, đó là ước muốn của tất cả mọi người. Ngày đầu năm mới thật sự thiêng liêng để tỏ lòng thành kính với tổ tiên. Phong tục đầu năm mới, người xưa có lệ khai bút (viết chữ) đầu xuân. Ngày nay, nhiều gia đình vẫn còn gìn giữ được phong tục ấy.
Khai bút tức là mở bút, lấy bút ra viết hay làm một việc gì đó liên quan. Ngày xưa vì viết bằng bút lông nên việc khai bút là rất quan trọng, phải mài mực áo dài khăn xếp đốt hương trầm làm một bài thơ, một câu đối, một bài văn. Các vua chúa xưa kia cứ đến ngày đầu năm mới là sẽ tự mình khai bút. Họ thường làm những bài thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm với tiêu đề như Nguyên đán thí bút, Tân Sửu thí bút…
Mùa xuân vua làm thơ với mong muốn nói lên những suy nghĩ của mình đối với bá quan bách tính. Sau một năm làm việc, tổng kết lại những sự được và chưa được để cho lòng gắng sức lên. Hơn nữa, qua lời thơ ấy, nhà vua như muốn cầu mong trời cao ban phước lành cho nhân dân. Nhà vua khẳng định, mọi điều phúc lộc là do trời sắp đặt, đầu năm có điềm lành ngưng tụ báo hiệu một năm được mùa bội thu.
(8) 相傳帝堯殿前土階三尺,下生有蓂莢草。每逢初一,便一天生一片葉子;逢十五,則一天掉落一片葉子,依此循環不息。幼學瓊林·卷四·花木類 (Tương truyền Đế Nghiêu điện tiền thổ giai tam xích, hạ sinh hữu minh giáp thảo. Mỗi phùng sơ nhất, tiện nhất thiên sinh nhất phiến diệp tử; phùng thập ngũ, tắc nhất thiên trạo lạc nhất phiến diệp tử. Y thử tuần hoàn bất tức - Ấu học Quỳnh Lâm, Quyển 4, Hoa mộc loại), Tương truyền trước điện Vua Nghiêu cách thềm 3 thước, có một cây cỏ Minh Giáp (cỏ may mắn). Mỗi lần gặp một lần thì một ngày mọc ra một lá, gặp lần thứ 15, thì ngày đó lá rụng hết, dựa vào điều này để nói về việc tuần hoàn vẫn diễn ra.
Nguyễn Huy Khuyến
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...