Thứ ba, ngày 22 tháng 10 năm 2024
22:03 (GMT +7)

Nhìn lại việc trọng dụng trí thức, nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh

VNTN - Người tài không phải là người có thể làm tất cả, người tài chính là người biết sử dụng những người tài hơn mình. Có một danh nhân đã nói như vậy. Hồ Chí Minh không chỉ là một người tài, Người còn là người có sức hút và quy tụ lớn đối với trí thức và nhân tài để phục vụ cho sự nghiệp cứu nước và kiến quốc. 


1. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đội ngũ trí thức. Ngay trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản năm 1923, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Thiểu số các nhà nho hay là các nhà trí thức là các nhà cách mạng dân tộc chủ nghĩa. Chính họ đã kích động mọi cuộc nổi dậy trong quá khứ”.

Ngay khi nước nhà mới giành được độc lập, ngày 14-01-1945, trên Báo Cứu quốc số 91 đã đăng bài viết của Bác với tựa đề Nhân tài và kiến quốc. Người viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.

Ngày 22-11-1946, trong tình thế nước sôi lửa bỏng của đất nước khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, trên Báo Cứu quốc số 411 đã đăng Thông lệnh Tìm người tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ".

Chủ tịchHồChí Minhnói chuyện với các trí thức năm 1964. (GSTrần Hữu Tước ngồi bên trái Bác Hồ). Ảnh http://baotanglichsu.vn/

Tháng 6-1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rất rõ: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội, nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài. Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam sẽ là cùng với toàn thể đồng bào, kiến thiết nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc”…Lúc bấy giờ, khi có ý kiến cho rằng Chính phủ không trọng dụng trí thức, Hồ Chủ tịch đã giải thích rõ rằng đó là thành kiến không đúng và chính anh em trí thức cũng có cảm tưởng như vậy. Người khẳng định sự thật không phải như thế mà chính là những đảng cách mạng càng cần phải trọng dụng trí thức bởi theo Người: Muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư,... Tuy nhiên, Người cũng khẳng định trí thức đáng trọng phải là trí thức “hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng nhân tài nước ta dù chưa nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng, thì nhân tài ngày càng phát triển, càng nhiều thêm. Người cũng khẳng định việc dùng nhân tài không nên quá khắt khe, miễn không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Người cho rằng những người “tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt vào làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”. Người còn căn dặn có rất nhiều nhân tài ngoài Đảng và chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước.

2. Không phải tất cả mọi trí thức đều bị Hồ Chí Minh thu phục một cách tuyệt đối và chắc chắn Hồ Chí Minh cũng không kỳ vọng vào điều ấy. Thế nhưng sự thật lịch sử đã diễn ra đầy sôi động và thật kỳ diệu, rất nhiều trí thức lớn đã bị hấp dẫn và sức hút kỳ diệu từ Hồ Chí Minh. Tất nhiên, khi những trí thức ấy đi theo Hồ Chí Minh có nghĩa họ đã chọn cho mình con đường đi về phía nhân dân đau khổ của mình, nhưng nếu không phải Hồ Chí Minh, liệu rằng có hẳn một phong trào trí thức dấn thân ấy hay không. Câu trả lời chắc chắn là không.

Tư tưởng trọng dụng nhân tài, trọng dụng trí thức của Hồ Chí Minh đã có từ rất sớm nhưng nó đã được thể hiện rõ nét nhất ngay trong bản Chương trình của Mặt trận Việt Minh. Có lẽ vì vậy mà trong cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã có rất nhiều quan lại, trí thức của triều đình phong kiến đi theo cách mạng như các vị Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Phạm Khắc Hòe, Đặng Văn Hướng v.v… Khi Ủy ban Dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời, ngoài những thành viên của Việt Minh còn có những bộ trưởng là người không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương như Bộ trưởng Thanh Niên Dương Đức Hiền (Đảng Dân chủ), Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế Nguyễn Mạnh Hà (một người công giáo không đảng phái), Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính Đào Trọng Kim (không đảng phái), Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội Nguyễn Văn Tố (không đảng phái)…

Chính phủ khóa I được lập ra sau ngày bầu cử Quốc hội khóa I ngày 06-01-1946, những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương đã tự rút lui để nhường các ghế bộ trưởng lại cho các thành viên các chính đảng khác, các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Việt Minh chỉ nắm 4 ghế là Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Giáo dục Đặng Thai Mai, Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến và Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp. Còn lại tất cả các chức vụ khác đều do các nhân sĩ trí thức hoặc của các chính Đảng khác nắm như: Phó Chủ tịch Chính phủ Nguyễn Hải Thần của Việt Cách, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ là nhân sĩ không đảng phái; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam (nhà văn Nhất Linh) của Việt Quốc v.v… Quốc hội cũng thành lập Cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) đảm nhiệm.

Ngay sau cách mạng Tháng Tám, theo đề nghị của Bộ trưởng Nội vụ, sau khi tham khảo ý kiến nhiều nhân sĩ, trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết (gồm 50 thành viên là các trí thức, nhân sĩ nổi tiếng, các bộ trưởng và thứ trưởng) để nghiên cứu một kế hoạch kiến thiết quốc gia và dự thảo những đề án kiến thiết đệ trình lên Chính phủ. Hàng loạt các nhân sĩ, trí thức sau đó đều được mời và được trọng dụng. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, tiến sĩ triều Thành Thái năm 1904 đã được mời làm Bộ trưởng Nội vụ (Bộ Công an) và khi Hồ Chủ tịch đi thăm Pháp năm 1946, cụ đã được giao quyền Chủ tịch nước. Rất nhiều các trí thức Tây học nổi tiếng đã từ bỏ cuộc sống giàu sang, phú quý nơi trời Tây hoặc nơi sung sướng trong nước để về tham gia kháng chiến, kiến quốc như Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Văn Huyên, linh mục Phạm Bá Trực, cụ Cao Triều Phát, luật sư Phan Anh v.v…

Gần như tất cả những trí thức nổi tiếng bị thuyết phục bởi sức cảm hóa lớn lao và minh triết Hồ Chí Minh đã cùng nhân dân chịu đựng khó khăn, gian khổ, hy sinh, có những đóng góp xứng đáng và khẳng định vị trí của mình trong lịch sử dân tộc.

3. Đất nước ngày càng đổi thay và phát triển. Trong công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay, vai trò của đội ngũ trí thức càng quan trọng hơn bao giờ hết. Năm 2008, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về trí thức, trong đó khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”.

Có một trí thức nổi tiếng người Việt Nam ở nước ngoài là Cao Huy Thuần đã nói đại ý rằng trí thức là “trí không ngủ”. Những người luôn thao thức với vận mệnh của đất nước và số phận của dân tộc mình, cũng như truyền cảm hứng để những người khác cùng thao thức với vận mệnh của đất nước và số phận của dân tộc mình thì đó chính là trí thức. Đã có người chê Khổng Tử rằng không được vua Lỗ ban cho ký thịt dê mà đã vội bỏ nước Lỗ ra đi. Bậc Thánh Nhân như Đức Khổng Tử không phải vì ham cân thịt dê mà bởi khi vua không chia thịt cho mình nghĩa là vua đã không cần mình nữa. Lòng tự trọng của bậc trí thức đã mách bảo Ngài phải ra đi. Người trí thức chân chính khi nào và ở đâu vẫn vậy, cái mà họ cần nhất là sự trân trọng công lao đóng góp của họ và thật sự hiểu họ. Ai cũng cần phải có ăn mới sống để làm việc, nhưng nếu thật sự chúng ta trải “thảm đỏ”, “thảm xanh” để đón trí thức với 50 triệu, 100 triệu mà không thật sự tạo điều kiện để họ làm việc, sáng tạo và cống hiến thì dù chính sách có hay đến bao nhiêu cũng sẽ thất bại. Điều gì đã tạo ra sức hút kỳ diệu nơi Hồ Chí Minh đối với trí thức? Để hấp dẫn người khác, trong đó có nhiều trí thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau từ triết học, toán học, luật học, văn chương…chắc chắn Hồ Chí Minh phải là con người rất đa dạng về đời sống văn hóa và tinh thần. Thế nhưng, chính tấm lòng vì dân, vì nước, chính cách cư xử thật sự tinh tế, chính cách tôn trọng và trọng dụng trí thức mới chính là sức hút to lớn của Hồ Chí Minh đối với đội ngũ này.

Trong bối cảnh đất nước hôm nay, nghĩ về Hồ Chí Minh, nghĩ về tư tưởng về trọng dụng trí thức, sử dụng người tài của Người sẽ giúp cho những cơ quan lãnh đạo có trách nhiệm hiểu hơn, thực hiện tốt hơn việc trọng dụng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nguồn lực nội sinh, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB.CTQG. H 2011, Tập 1, trang 221

2 Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB.CTQG. H 1995, Tập 4, trang 99.

3 Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB.CTQG. H 1995, Tập 4, trang 452.

4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H 2009, Tập 5, trang 156.

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H 2009, Tập 7, trang 33.

6 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG. H 1995, Tập 4, trang 39.

7 Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, NXB CTQG, H. 2008, tr. 90-91.

Hồng Phúc

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy