Thứ ba, ngày 17 tháng 09 năm 2024
03:09 (GMT +7)

Một số tác phẩm của tác giả Thế Chính

Lửa mồ côi

Em đi qua đời anh 

Đánh rơi tàn lửa đỏ 

Anh ủ suốt mùa đông 

Đợi em về thổi gió

Nhưng rồi em đã quên 

Chẳng bao giờ trở lại 

Để đốm lửa mồ côi 

Trong lòng anh cháy mãi    

Nỗi buồn tình yêu 

Sông Cầu nước chảy trong veo

Chiều thu chiếc lá bay vèo mặt sông

Hỡi nhười tôi nhớ tôi mong 

Ở đâu sao chẳng trôi cùng với tôi

Bao năm biền biệt phương trời

Tôi đi đâu phải phụ người mà đi

Chờ tôi em ngại lỡ thì

Thương em nào dám trách gì em đâu

Trở về gạn đáy sông sâu

Tìm bao kỷ niệm trao nhau...có còn

Kìa ai đãi sỏi cuối nguồn

Xây nhà bằng cả nỗi buồn tình yêu

Vợ vắng nhà  

Đêm qua em vắng nhà

Lũ dế kêu khản giọng

Anh hết vào lại ra

Bụng ăn nhầm lá nóng

Trăng ngoài vườn loang lổ

Trời khô không hạt sương

Gió buồn như ngái ngủ

Nhện đứt hoài tơ vương

Hơi thở táp vào trăng

Xám một vùng trời đất

Nỗi nhớ lần trong đêm

Lê bước chân hành khất

Đêm chập chờn giấc ngủ

Lúc lênh đênh cánh bèo

Lúc tan chìm sỏi vỡ

Giữa hình em trong veo

Chiếc lá rơi ngoài ngõ

Ngỡ là em đã về

Giật mình tung cánh cửa

Vập đầu vào trăng khuya !

Lá cậm cang

Thuở chăn trâu

Lá cậm cang vừa chua vừa chát

hai đứa chụm đầu nhăn mặt khen ngon

Những lúc nắng

Chui vào gốc cậm cang che mát

Toàn kể chuyện vui

Chưa biết đến chuyện buồn

Lớn lên

Anh vào bộ đội

Cơn khát giữa rừng

Nhớ lá cậm cang

Lần đầu tiên biết buồn

Là lúc xa em

Ngày trở về

Anh đến gốc cậm cang

Nhấm chiếc lá

Không tài nào nuốt nổi

Vòm lá cũ

Bây giờ như tơ rối

Em đi lấy chồng

Ai gỡ mối cho cây

Tương phản

Con sói rình mò giấc ngủ

Mon men quanh những ngôi nhà

Chùa Xa vọng về tiếng mõ

Cửa thiền lẩn lút bóng ma

Trên những mảnh tường đã cũ

Đàn sên đi nhặt nỗi buồn

Rờn rợn những âm thanh tối

Muỗi già lại gặp dơi non

Lũ sâu rì rầm trong lá

Đàn chim ríu rít kéo về

Nắng tan trong từng hạt đất

Cánh đồng hạt thóc vàng hoe

Địa ngục sinh nhiều quỷ sứ

Thiên đường càng lắm thánh nhân

Em ơi! bao điều đố kỵ

Cho em lộng lẫy thiên thần

Ngẫm

Những điều cầm chắc trong tay

Mở ra thoắt đã tan bay lúc nào

Những điều ngỡ tựa chiêm bao

Mở ra thoắt đã lúc nào trong tay

Có không - còn mất  ai hay

Ở đời ngọt đắng xưa nay lẽ thường

Ngọt rồi đắng tận vào xương

Đắng rồi ngọt những dăm trường mai sau

Quên và nhớ  

Lầm lũi thời gian xâu nỗi nhớ

Năm tháng qua đi 

Đâu mất đâu còn

Cay đắng cháy hồng ngọn lửa

Khói lên trời phủ bóng xuống trần gian

Ta tìm đến những ngôi chùa quên lãng

Hỏi đá rêu phong: ai hóa phật ở nơi này

Và đến cả những vi la tráng lệ

Hỏi viên gạch hồng… bao giờ tỉnh cơn say?

Ta tìm đến khu bảo tàng yên tĩnh

Nói với thanh gươm nằm ngủ trong bao

Rằng từ thuở chia tay cùng tướng lĩnh

Đã khi nào một chút đến tìm nhau

Ta trở lại rừng xưa nghe lá rụng

Hỏi con đường Tháng Bẩy có đi qua

Hỏi hàng cây hằn sâu bao dấu võng

Có ai về nhặt nắng mỗi mùa hoa 

Quên và nhớ

Niềm đau hay hạnh phúc

Trách chi ai!  

Ai trách bây giờ

Nghe sông chảy giữa đôi bờ trong đục

Nỗi đau nào hóa đá mọc thành thơ!

Thơ viết ở nghĩa trang

ngày 22-4-1972 máy bay B52 của giặc Mỹ ném bom xuống đai đội TNXP915 đang làm nhiệm vụ tại ga Lưu XáTPTN 60 thanh niên trẻ đã hy sinh tại đây

Bạch đàn gió thổi về đâu

Buồn rơi nát cỏ Sầu đau tím trời

Nhìn lên sáu chục con người

Sáu mươi ngôi mộ chung nôi một ngày

Lá vàng chưa nỡ rời cây 

Lá non sao đã nỗi này người ơi!

Xé trời từng hạt bpm rơi

Cỏ xơ xác cỏ 

Chiều tơi tả chiều

Người đi để lại bao điều

Nỗi đau năm ấy tình yêu bây giờ

Trở về Lưu Xá chiều mưa 

Sân ga gặp bóng người xưa lên tầu

Chị về đâu !

Em về đâu !

Áo xanh vẫn chửa phai mầu cỏ non

Tượng đài dang cánh tay thon

Bắc cầu đưa những đàn con lên trời

Núi yên ngựa

                                 Nhớ về cha

Dãy núi hình yên ngựa

Chiếc đòn gánh của trời

Gánh bao nhiêu nỗi khổ

Lũng tròn như chiếc nôi

Cha tôi về đây lập nghiệp

Ghé vai chung gánh với trời

Đất gan gà trơ lì sỏi đá

Sống qua ngày cha đổi bát mồ hôi.

Chiến tranh núi thành trận địa

Cha chặt cây vườn làm lá ngụy trang

Những cỗ pháo vươn nòng như ngựa hí

Phun lửa lên trời xác giặc thành than

Lưng núi, lưng cha dạn dày mưa nắng

Kham khổ, đói nghèo lam lũ hề chi

Chúng tôi lớn bên triền núi vắng

Câu thơ buồn trong đá tiễn cha đi.

Ở nơi xa mơ về núi cũ

Thấy bóng cha trên yên ngựa lên trời

Hai chóp núi như hai bầu sữa

Quằn quã một thời vắt sỏi nuôi tôi.

Mỏ Bạch xưa phố nghèo xơ xác

Núi đơn côi như một nấm mồ

Giờ quanh núi nhà lên như nấm mọc

Bóng cha lồng trong bóng núi ngày xưa.

Tôi đọc thơ anh 

                               

                             Tặng nhà thơ Giang Nam

Giang Nam ơi!

Tôi đọc lời thơ anh tha thiết

Nh­ư nắm tay anh trên đất miền Nam

Thơ anh gửi quê h­ơng gang thép 

Nơi Bác ngày x­a ngủ núi nằm hang 

Và hôm nay rực cháy lửa lò cao

Vang tiếng cư­ời vui tiếng nói chào

Câu hò bay bổng qua mây khói

D­ưới đất trên trời mọc lắm sao

Nh­ư quê anh lửa thù rực cháy 

Trong trái tim ng­ời trong dòng máu chảy

Tôi yêu thư­ơng biết mấy những con ng­ười 

Đang đốt lò luyện thép khắp nơi

Luyện thành thép những tâm hồn ý chí

Thép đã tôi trong gian khổ đấu tranh

Và hôm nay trong những dòng thép chảy

Có thép quê tôi hòa với thép quê anh

Giang Nam ơi chuyển giùm tôi anh nhé 

Đến quê anh ngàn vạn cái hôn

Hôn những đứa em mẹ cha giặc giết

Khóc mòn hơi chết gục ở đầu thôn

 

Hôn bà mẹ l­ưng còng gãy xuống

Vẫn còn đi trong đám biểu tình

như­ bà mẹ quê tôi ngày tr­ước 

đư­a ng­ười chiến sỹ vư­ợt rừng xanh

Hôn những cô em mắt ngời tỏa sáng

Ngực tròn căng chứa đựng cuộc đời

Đạn xé tim rồi còn ôm cờ Đảng

Nụ c­ười l­ưu luyến nở trên môi

.... 

Giang Nam ơi!

Lòng tôi anh có biết 

Tôi muốn ghì ôm chặt lấy miền Nam

Như­ ôm chặt ng­ười bạn hiền thân thiết

Không để kẻ thù cắn xé tim gan

Tôi với anh bây giờ tuy cách mặt

Nh­ưng hai tấm lòng gửi một bài thơ

Giang Nam hỡi hẹn anh ngày thống nhất 

Trên bến Hiền L­ương anh đến... tôi chờ 

Cầu lúc ấy chắc ngư­ời qua lắm lắm

Tôi với anh đứng ở hai đầu

Chờ mãi ng­ười qua cầu chẳng vắng

Bồi hồi cất tiếng gọi tên nhau

----------------------

"Bài thơ nhỏ gửi Thái Nguyên"

của Giang Nam đăng báo Cứu quốc số 3089

"Tôi đọc thơ anh" của Thế Chính

đăng báo Cứu quốc số 3091   

Thế Chính

[su_button url="https://vannghethainguyen.vn/2016/11/22/10565/"]Trở về thư viện tác giả[/su_button]

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy