Một số tác phẩm của tác giả Dương Văn Oanh
Đồng Văn
Bình minh bừng lên đá
Sơn ca lảnh lót hót ngang trời
Đồng Văn bước ra từ những bài học lịch sử, địa lý đầu đời
Hùng vĩ cao nguyên
Sừng sững lũy thành biên viễn
Về đâu hỡi đào Tiên?
Để Núi Đôi cứ đợi!
Sa mộc nhà Vương đứng lặng trầm ra chiều ngẫm ngợi?
Dinh thự thâm u mang mang một thuở uy quyền
Và một Đồng Văn trong lòng chợ phiên
Xúng xính H’Mông em
Xúng xính Lô Lô em…
Mềm mại nhịp váy rung
Rực rỡ tinh khôi núi
Lay láy mắt đen
cho vàng thu lướt khướt môi mềm
Một phía nóc trời ngựa hí Mã Pì Lèng
Hồn của đá đã thành hồn non nước
Mồ hôi đá thấm đẫm ngàn vạn kiếp
Đá bên người nương tựa lòng nhau
Đỉnh Rồng thiêng lĩnh nhiệm giữ địa đầu
Đất hòa đá xanh tươi màu ngô, lúa
Bầy trẻ núi bi bô hát múa
về bài ca giữ nước
về tình ca biên thùy
Trùng trùng sóng núi bước quân đi
Nào có vàng son
Nào hoa lệ kinh kỳ
Lũng Cú nặng tình trong lòng Tổ quốc
Đăm đắm phía trời phên giậu Bắc
Muôn đời người ôm trọn cả Đồng Văn!
Đồng Văn - Hà Giang, đêm 06/9/2014
Mái trường điểm tựa
Xin được gọi mái trường là điểm tựa
(Nếu buồn đau, vịn dậy đứng thẳng người)
Khi thành đạt vẫn trắng trong nguồn cội
Đạo làm người thắp sáng mãi xanh tươi
Xin thành kính trước bảng đen phấn trắng
Cho bao dung - trí tuệ với lẽ đời
Ươm bao ước mơ trở thành quả ngọt
Trải mùa màng vườn hoa trái tốt tươi
Xin được gọi thầy, cô là điểm tựa
Nâng cánh chim non bay bổng chuyền cành
Nếu một ngày lỡ bão giông chắn lối
Cánh đại bàng vẫn bay vút trời xanh
Xin được gọi mái trường là cha mẹ
Khắc ghi công dưỡng dục, sinh thành
Dẫu một ngày bên dốc đời mây trắng
Con vẫn về như thuở tóc còn xanh
Truyền hào khí những “Bình ngô đại cáo”
Truyền thiêng liêng những “Nam quốc Sơn hà…”
Gieo hạt giống những chân trời khoa học
Tiếng trống trường ngân vọng mãi ngàn xa.
Thái Nguyên, ngày 19 tháng 11 năm 2011
Trung đội lính làng
Vĩnh biệt sa trường Trung đội trở về làng đóng quân(*)
Doanh trại dựng giữa đất trời quê mẹ
bên đồng bãi thân quen
bên lũy tre xanh mát
cùng gió quê vi vút giọng làng
Đội hình các anh
vẫn “quân lệnh như sơn” nghiêm ngắn hàng hàng
vẫn “rèn cán chỉnh quân”, “sẵn sàng chiến đấu”
lớp lính cha ông đứng cùng chiến binh con cháu
khúc quân hành nhịp bước những hồn thiêng
Các anh ơi!
Tiếng súng im rồi
Khói trận đã tan
Còn lại những bình minh và chiều quê yên ả
Còn lại những hơi thở ngày dân dã
Dội vào các anh:
tiếng cày bừa
mùi ngô khoai
ban mai quê
mùa lúa mới…
Trong khói nhang trầm:
rưng rưng lời người yêu xưa hẹn – đợi!
thủ thỉ Vợ - Con – Anh – Em – Cha – Mẹ – Ông – Bà…
Các anh về rồi!
Vĩnh viễn chẳng còn xa
Bài học dở dang gửi cháu con viết tiếp
Lòng ái quốc truyền lớp sau tiếp bước
Những gì xưa
xếp thành pho thời gian oanh liệt
Một phía huân chương có khắc tên những Trung đội lính làng.
Thái Nguyên, 07-2012
Trước đền Đề Thám
Chiều lắng chậm dần…
Mang mang hùng khí
Thành lũy hoang liêu mờ tỏ góc trời
Lời Sử Nước thì thầm trong gió núi
Khói hương trầm thành kính gọi: Thủ lĩnh ơi! (*)
Nghe gào thét vạn áo nâu chân đất
Như chập chờn ngàn vó ngựa hùng binh
Đây lối cũ!
Đâu dấu bàn chân cũ?
Đời áo nâu - nợ nước - đã quên mình
Quen canh cửi, cấy cày, săn bắt
Không tín điều dài, không biết góc bể xa
Mang dòng máu mẹ Âu Cơ mở nước
Cắt máu thề: quyết giữ đất ông cha
Buổi thanh bình lo cuốc bẫm cày sâu
Khi giặc giã, gốc dân thành nghĩa sỹ
Trối kệ đạn đồng
Hừng hừng nghĩa khí
Một lời thề: ái quốc, trung dân
Yên Thế là đây!
Ngân vọng xa gần
Vang hào khí “ hùm thiêng” sông núi
Mãi thề nguyện không hổ danh tiền bối
Đời nghiêng mình dưới bóng những hùng nhân.
Nhã Nam, 9- 2010
Miền gọi
Nắng rải mành lên ký ức tuổi thơ
Ngày tha thẩn ngả dần sang Tam Đảo
Đồng bãi gánh mùa mồ hôi đầm vai áo
Thôn nữ nào nợ nỗi nhớ khôn nguôi!
Chao rập rờn theo những áng mây trôi
Cánh cò trắng tìm về nơi chốn cũ? (1)
Dần khuất bóng bao phận đời lam lũ
Ba Hàng còn dùng dằng chiều sân ga!
Đường rộng dài đón những bước chân qua
Thả nỗi nhớ về muôn miền xuôi - ngược
Lao xao canh gà, ba vùng tỉnh giấc (2)
cùng đón bình minh reo
Ngày xếp ngày nguồn cội mãi trong veo
Sải bước tan ca, thoảng câu ai hát
Hừng đông sông Cầu báo mùa sai hạt
Chầm chậm chiều huyền thoại đẫm dòng Công
Được - mất
Giận - thương
Danh lợi - hư không…
Vời vợi Phổ Yên góc trời trong sáng
Xin biết lỗi lỡ những lần xao lãng
Đàn con về miền tiếng gọi giữa hai sông.
Phổ Yên, thu 2009
(1) Địa danh có tên gọi Phố Cò
(2) Phổ Yên có địa điểm tiếp giáp giữa ba vùng đất: Thái Nguyên - Hà Nội - Bắc Giang
Ngơ ngác sông Cầu
Mái đầu nhạt nắng…
Chiều rồi
Phải về thôi!
Về phía đời nợ nan
Bãi xưa mình vẫn thường sang
Có còn hoa cải rực vàng bên sông?
Vẫy vùng nam - bắc - tây - đông
Thỏa rồi cái chí tang bồng làm trai
Phù hoa, chua ngọt, đầy vơi…
Giật mình tiếc lại một trời mưa ngâu
Chiều mưa xưa, nón chụm đầu
Cái lườm hôm ấy!
Giờ đâu?
Phải tìm…
Máu hồng vẫn chảy về tim
Cọng răm, nhành cải còn tìm về nhau
Chiều buông ngơ ngác sông Cầu
Ước gì lại chút mưa ngâu mát lòng
Ngày xưa còn đợi ai không
Lơ ngơ bóng lẻ bên sông đợi đò!
Công viên sông Cầu, Thái Nguyên chiều thu 2007
Dương Văn Oanh
Tiếng thác vọng
Không tam sao thất bản lý lịch dòng
Thác Bản Giốc đổ tầng trong Khai sinh gốc
Khuya sớm ầm ào bản thác ca cội Việt
Ì ầm sóng vỗ tới hậu nhân…
Nửa dòng cong vì thế sự xoay vần
Dang dở chảy giữa bờ trong bờ đục
Nửa cột mốc đăm chiêu tình ảo - thực (*)
Mốc giới lòng mất ngủ, chẳng lặng yên
Be rượu đời cùng thức cạn trời đêm
Nghe như tiếng giả Từ quy gọi bạn
Chén nào đắng. Chén nào làm sao cạn
Nửa bến buồn lây xưa cũ buồn theo!
Những quân cờ đi díc dắc ngoằn ngoèo
Bàn cờ thế nghiêng về Tây? Nam? Bắc?
Ngàn vạn nước giấu trận đồ giăng mắc
Thấp, cao cờ mấy nước…
Con nào rồi sang sông?
Bao kiếp người còn nợ với cha ông
Thác bạc trắng đổ đầu ai bạc trắng
Còn luồng thác trộm đổ vào cõi lặng
Nửa thác lòng nước còn nặng nề rơi!
Cao Bằng, đêm 02 - 9 - 2015
(*) Không thể đặt cột mốc biên giới số 836 ở giữa thác, thay bằng đặt thành hai cột mốc, số 836(1) và 836 (2) ở hai bờ chân thác. Cột mốc 836(2) thuộc phía bờ Việt Nam.
Lượng và Chất (*)
Thêm muối
thì dễ mặn canh
Thêm mưa thêm gió
dễ thành bão giông
Thêm vay
dễ nợ chất chồng
Thêm cho
dễ được trong lòng thảnh thơi
Thêm dầu
dễ lửa ngút trời
Thêm tình
chẳng biết lỗ - lời sao anh?!
Bớt muối
dễ lại nhạt canh
Bớt mưa bớt gió
có thành thuận thiên?
Bớt vay
là bớt ưu phiền
Bớt cho
hao khuyết nỗi niềm trần ai
Bớt dầu - bớt lửa cơm sôi
Bớt tình
chẳng biết lỗ - lời chi em?!
(*) Theo các câu thành ngữ:
- “Tích gió thành bão”
- “Đổ thêm dầu vào lửa”
- “Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê”
- “Một điều nhịn là chín điều lành”
Tư lự cánh đồng
“Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu”
(Ca dao)
Này Cò
này Vạc
này Nông
các con ra đồng tát tép cùng u
Giỏ to, giỏ nhỡ, giỏ vừa
Vài sải bước đã đầy lu ốc vàng (*)
Hôm xưa tát nước bên đàng
Có đàn cà cuống bò ngang rề rà
(Cà cuống là cà cuống à
đít mà dính độc sẽ là: hết cay!)
Đồng thẳng cánh cò bay tự cổ
Sao lúa, ngô... loang lổ mảng mầu
Mảnh vàng, mảnh trắng, mảnh nâu
Ô xiên, ô méo, hẻo đầu vẹo đuôi
Kìa ruộng dưới chị ngồi thu hái
Sát vuông trên anh vãi thuốc rầy
Cá, cua, đỉa, ngóe phơi thây
Những đàn cò đói buồn bay bỏ đồng
Khắc khoải gọi vào đêm không
Giật mình cuốc sợ mất đồng đi đâu
Còn đồng cạn?
Còn đồng sâu?
Đầu bờ còn đấy
Con trâu còn cười!
Đồng nhả khói về trời cao vút
Thỉnh Thần Nông một chút ban truyền
Nông gia vững nghiệp địa điền
Bờ xôi ruộng mật - bản quyền nhà nông
Ngắm trời mây đẹp như bông
Trầm tư vài nỗi với đồng...
Vậy thôi.
Thái Nguyên, 10 - 2012
(*) Ốc bươu vàng
Sau lưng vua
Sau lưng có thể là hoa
Sau lưng có thể là ma là thù
Sau lưng…
kẻ điếc, người ngu
Sau lưng…
kẻ sỹ, trượng phu thâm trầm
Sau lưng…
lươn lẹo giã tâm
Sau lưng…
đồng mộng đồng âm đồng sàng
Sau lưng…
người đẹp giả trang
Sau lưng…
cả một kho vàng khuyết danh
Sau lưng có thể lưu manh
Sau lưng có thể chân thành đúng sai
Sau lưng có thể người tài
Trước mặt có thể kẻ hai…tấc mồm
Lẽ thường “nghịch nhĩ trung ngôn”
Chữ tài chữ mệnh dại khôn kiếp người
Thói đời “thuận nhĩ nịnh lời”
Xám lòng đỏ vỏ tốt tươi mặt mày
Sử buồn thầm nhắc hôm nay
Bẫy người gương chiếu ngàn đời mai sau
Tình buồn Trọng Thủy - Mỵ Châu
Nát tan xã tắc bể dâu sơn hà
“Giặc ngồi ngay sau vua cha”
Nỏ thần rơi để Triệu Đà xâm lăng
Đời ơi còn nhớ hay chăng???
Phía trăng non
Mỏng manh sợi khói lam
vít cong chiều xóm nhỏ
Bức tranh nghèo lam lũ
vẽ gầy guộc sắn khoai
Con chữ méo hình hài
vịn nhà tranh áo vá
Trắng cánh còn bay lả
rập rờn trời ca dao
Thuyền vào bến bạc đầu
Càng thương vầng trăng khuyết
Đau đáu miền cổ tích
ở phía trời trăng non!
Biển Ban-tíc, hè 1990
Ghi chú
11 bài thơ trên đã đăng trên các báo: Văn nghệ Thái Nguyên; Giáo dục & Thời đại; Văn nghệ Trẻ từ 2008 đến 2016.
Dương Văn Oanh
[su_button url="https://vannghethainguyen.vn/2016/11/22/10565/"]Trở về thư viện tác giả[/su_button]
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...