Thứ sáu, ngày 20 tháng 09 năm 2024
04:31 (GMT +7)

“Lễ hội Cầu mưa”, văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của người Việt

1. Lễ hội Cầu mưa (hay còn gọi là Lễ hội Tứ Pháp) có từ lâu đời, gắn liền với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (vị thần nông nghiệp cổ sơ) của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, khi đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Tứ Pháp bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho những hiện tượng thiên nhiên là mây, mưa, sấm, chớp. Đây là lễ hội mang đậm nét văn hóa của vùng đồng bằng sông Hồng thể hiện mong ước chinh phục thiên nhiên, cầu mưa thuận gió hòa, cầu phồn thực no đủ, thiên hạ thịnh vượng phồn vinh, vạn vật sinh sôi nảy nở.

Chuẩn bị lễ rước nước tại chùa Thái Lạc

Lễ hội Cầu mưa cùng với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ở vùng châu thổ sông Hồng đã phản ánh rõ nét quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam vào những năm đầu Công nguyên, mà điểm đầu tiên tiếp xúc cũng là một trung tâm của Phật giáo đương thời đó là vùng Luy Lâu (Bắc Ninh ngày nay). Từ trung tâm này, tín ngưỡng thờ Tứ Pháp đã lan tỏa ra các vùng phụ cận. Lễ hội Cầu mưa là một bằng chứng phản ánh sự dung hòa, cùng nhau phát triển của Phật giáo với Nho giáo tại Việt Nam nói chung, đồng thời Lễ hội cũng minh chứng cho sự dung hòa giữa việc thờ Phật với việc tôn thờ các vị thần bảo hộ các cộng đồng làng xã trong vùng châu thổ sông Hồng.

Không chỉ phản ánh đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cư dân đồng bằng châu thổ sông Hồng, Lễ hội Cầu mưa còn phản ánh quá trình khai phá vùng đất này trong quá khứ. Cùng với quá trình phát triển, người Việt đã từng bước làm chủ vùng châu thổ theo hướng từ núi dần ra biển. Lễ hội Cầu mưa đã thể hiện được phần nào tập quán sử dụng nước của cư dân nơi đây. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, về mặt hình thức người Việt sử dụng hai nguồn nước chính là nước sông và nước mưa để trồng lúa nước. Tuy nhiên, những nguồn nước này không phải lúc nào cũng thuận lợi, do vậy phải có những ứng phó phù hợp. Khi trời hạn hán lâu ngày không có mưa, Lễ hội Cầu mưa được mở để cầu nguồn nước. Những nghi lễ này phần nào phản ánh tập quán canh tác dẫn thủy nhập điền. Thông qua các nghi lễ, nghi thức và các trò diễn xướng trong lễ hội, để tái hiện lại lịch sử, tái hiện xã hội, tái hiện cội nguồn của tự nhiên và con người.

Trong quá trình lịch sử khai phá vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với cây lúa nước, con người đã biết quan sát tự nhiên, tích lũy được nhiều kinh nghiệm, tri thức cùng với các quy luật của thời tiết, khí hậu... để vận dụng vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, thời tiết đôi khi cũng biến đổi trái với quy luật thường ngày, gây nên nhiều thiệt hại cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Trong hoàn cảnh không thể lý giải được các hiện tượng thiên nhiên, việc xuất hiện những thần linh gắn với mây, mưa, sấm, chớp là đòi hỏi hết sức tự nhiên của đời sống tâm linh người Việt. Trên cơ sở sự sùng bái và thiêng hóa các hiện tượng tự nhiên tạo nên những vị thần linh với hệ thống thờ tự, tượng thờ, thần tích, truyền thuyết, lễ hội… Và khi cùng nhau làm những nghi lễ thờ phụng những vị thần linh này họ tin rằng sẽ “tác động” đến tự nhiên, đem lại cho cộng đồng một năng lượng tinh thần mới, giúp họ tự tin khi đối diện với các hiện tượng của tự nhiên.

Lễ hội cầu mưa không chỉ thể hiện mong ước chinh phục thiên nhiên, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương, nơi cố kết cộng đồng làng xã, nơi biểu dương những giá trị văn hóa và là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc.

2. Khác với những Lễ hội Cầu mưa gắn với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp vùng châu thổ sông Hồng, thời gian tổ chức thường là vào ngày sinh Phật Thích Ca cũng là ngày sinh của Tứ Pháp (ngày mồng 8 tháng 4) hay ngày hóa của Phật Mẫu Man Nương (ngày 17 tháng Giêng), Lễ hội Cầu mưa gắn với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp tại xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên tổ chức vào tháng 3 âm lịch hằng năm (từ ngày mồng 6 đến ngày mồng 8 tháng 3), với nhiều nét văn hóa đặc sắc và độc đáo riêng.

Trước Khai hội một ngày (mùng 5 tháng 3 âm lịch), nhân dân xã Lạc Hồng tổ chức lễ hạ tượng và lau rửa các đồ thờ tế. Sau đó làm lễ mộc dục và phong y để hôm sau tham gia rước hội, đồng thời chuẩn bị các lễ vật dâng cúng. Khai hội được tổ chức vào ngày 6 tháng 3, trong ngày này diễn ra nghi lễ rước bà Pháp Lôi (chùa Nhạc Miếu) và bà Pháp Vũ (chùa Hồng Cầu) xuống chùa Pháp Vân (chùa Thái Lạc) công đồng. Trong quá trình rước, ba bà làm lễ chào nhau, kiệu Pháp Vũ chào chị trước, kiệu Pháp Lôi chào sau, cuối cùng là kiệu bà Pháp Vân chào lại. Sau lễ chào, ba bà công đồng ngự yên vị tại chùa Pháp Vân một đêm. Ngày 7 tháng 3 tổ chức lễ rước rồng lấy nước sau đó rước ba bà Pháp Lôi, Pháp Vũ, Pháp Vân về ngự tại chùa Hồng Thái thờ bà Pháp Điện. Những người tham gia lễ rước rồng gồm: Bốn giai kiệu, tám người vác gầu múc nước chân quấn xà cạp (gầu được làm bằng bẹ mo cau già, có cán tre dài khoảng 2,5m); bốn giai rước kiệu chóe nước.

Đoàn rước tới chùa Hồng Thái

Sự độc đáo và khác lạ ở Lễ hội Cầu mưa được thể hiện thông qua những chiếc khố của giai kiệu. Các giai kiệu đóng khố, cởi trần, đầu quấn khăn vàng. Có thể nói đóng khố là điểm khá đặc trưng trong Lễ hội Cầu mưa, khố được làm cầu kỳ với nhiều nguyên phụ liệu khác nhau: thừng, vải vóc, đinh, hoa cúc chì, hạt bóng, hạt cườm... Theo thầy Thích Quang Hòa (trụ trì chùa Thái Lạc) thì việc các giai kiệu sử dụng trang phục đóng khố trong lễ hội cầu mưa có liên quan đến việc người dân tổng Thái Lạc xưa đi mua cành cây Dung Thụ (nơi sư Khâu Đà La gửi con) của người vùng Dâu (Bắc Ninh). Buổi sáng dân tổng Thái Lạc mua được ba đoạn khiêng về, chờ buổi chiều mua nốt đoạn còn lại, buổi trưa mọi người thử đòn nào ngờ cả đòn khiêng và khúc gỗ vụt bay theo đoàn người đi trước. Thấy vậy, người dân Luy Lâu đuổi theo đòi lại. Nhưng đoàn người đuổi theo đến đâu thì trời đổ mưa tới đó nên người vùng Dâu để cho người tổng Thái Lạc mang về và cũng nhờ có trang phục đóng khố mà người dân tổng Thái Lạc đã nhanh chân mang được khúc gỗ của cây Dung Thụ về. Vào những năm hạn hán kéo dài dân các làng thuộc tổng Thái Lạc xưa lại tiến hành làm lễ cầu đảo và rước Tứ Pháp công đồng để cầu cho mưa xuống, mùa màng tươi tốt và trong lễ hội cầu mưa các giai kiệu đều đóng khố để tái hiện lại lịch sử, tái hiện cội nguồn của tự nhiên. Dân làng cắt các đoạn dây thừng, tết xoắn thành những đoạn thừng con, cứ ba đoạn thừng con tết thành một thừng lớn có đường kính khoảng 1cm, chiều dài tuỳ theo. Những đoạn thừng này được ghép thành hình vành khuyên vừa với phần eo của giai kiệu sao cho cân đối, có khuy phía sau lưng để tháo lắp dễ dàng. Cứ sáu đoạn thừng thì dùng đinh sắt ghép vào được một khung khố, dùng vải trắng hoặc vải màu quấn phủ kín phần thừng bên trong. Xưa kia, dây thừng được làm bằng tre, dân làng chọn những cây tre non mềm, có dóng dài ít đầu mặt chẻ ra thành các lạt mềm sau đó tết xoắn lại thành các dây thừng. Họ dùng chì đun nóng sau đó đổ vào khuôn được làm sẵn có hình bông hoa chì cúc sáu hoặc tám cánh có cuống nhọn để cắm lên trên khung khố. Hoa cúc cườm và hạt bóng: Dùng dây mềm xâu các hạt cườm và hạt bóng lại thành chuỗi sau đó cuộn lại thành bông hoa cúc có năm hoặc sáu cánh dùng để trang trí trên khố. Ngoài ra còn có đội cờ, phường bát âm, chiêng trống...

Sau khi làm lễ tại chùa Thái Lạc, đoàn rước khởi hành rước rồng ra giếng cổ thuộc thôn Bình Minh làm lễ lấy nước rước về chùa Thái Lạc và các nhà sư làm lễ xin nước. Lễ vật dâng cúng là vàng, hương, trầu, rượu, mâm xôi thủ lợn và hoa quả. Khi tụng xong bài kinh xin nước, nhà sư dùng gáo dừa sơn đỏ có cán gỗ để lấy nước từ giếng làng. Khi múc xong, những người cầm gầu lần lượt múc nước từ giếng vảy ra xung quanh, miệng hô “Mưa! Mưa! Mưa!”.

Tiếp theo đoàn rước quay trở về chùa Thái Lạc. Số nước lấy tại giếng cổ thôn Bình Minh được chia thành ba phần đặt lên ban thờ ba bà: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi. Sau đó, làm lễ rước ba bà xuống chùa Pháp Điện. Tham gia đoàn rước có Cờ reo là người reo và xướng vần, nội dung những câu reo chủ yếu để cầu mưa:

Ba bà ngự ba ngai rồng

Cơn mưa cơn gió đầy đồng

Để cho thiên hạ dễ làm ăn

Ta cùng vui vẻ ơi!

Tất cả giai kiệu đều đồng thanh: Dà!

Và trên đường đi gặp những chỗ có nước những người cầm gầu múc nước vảy lên làm phép, miệng hô “Mưa, Mưa, Mưa”. Sau đó, ba bà ngự tại ngôi nhà lá trước cửa chùa Pháp Điện một đêm. Ngày 8 tháng 3, nhân dân sẽ rước các bà hoàn cung về ngự tại chùa của mình và tiến hành lễ Yên vị.

Đội giai kiệu trong Lễ hội Cầu mưa

Đặc biệt, trong những ngày diễn ra lễ hội, bên cạnh các hoạt động tế, lễ long trọng, trang nghiêm, thì phần hội với các trò chơi dân gian truyền thống như: kéo co, đập niêu, bịt mắt bắt dê, các trai kiệu chơi trò chơi đánh trăng… Trong đó, đặc sắc nhất là trò đánh Trăng/Giăng, một trò chơi thu hút đông đảo nhân dân và du khách dự hội hưởng ứng.

Trò đánh Trăng kéo dài khoảng 1 tiếng rồi nghỉ. Tham gia trò này chủ yếu là các giai kiệu và thanh niên trai tráng trong toàn xã. Thông thường mỗi lần đánh có khoảng năm mươi đến sáu mươi người tham gia. Ngoài ra còn có đội cờ, đội trống đứng cổ vũ. Trên khu đất rộng, Tiểu cổ (người đánh trống) mặc áo dài đỏ, đầu đội khăn đỏ, tay cầm trống khẩu đi trước. Một giai kiệu khoẻ mạnh, có giọng âm vang đi theo sau, tay cầm một lá cờ đỏ để ra hiệu và reo. Khi có hiệu lệnh, các giai kiệu đóng khố xếp hàng vòng tròn lần lượt chạy theo Tiểu cổ và Cờ reo. Cả đoàn chạy theo vòng xoáy trôn ốc theo chiều kim đồng hồ, sau đó quay ngược trở ra. Cứ như vậy, đi đủ ba vòng thì kết thúc một lần đánh trăng. Đây là những điểm khác biệt chỉ có trong Lễ hội Cầu mưa tại xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên mà không nơi nào có.

Về với Lễ hội Cầu mưa của tỉnh Hưng Yên, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những ngôi chùa cổ kính tồn tại hàng trăm năm tuổi mà còn đắm mình trong những nghi thức, nghi lễ, các trò chơi dân gian nhộn nhịp, hay những làn điệu dân ca truyền thống của vùng đồng bằng Bắc Bộ, những câu diễn, những câu reo, xướng vần cầu mưa… Qua đó, mỗi chúng ta sẽ được trải nghiệm những nét đẹp văn hóa dân tộc, được hòa mình trong không khí tưng bừng của lễ hội, được thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Với những giá trị tiêu biểu trên, Lễ hội cầu Mưa, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Vũ Oanh

1 đã tặng

0

1

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy