Đặc sắc “Vũ khúc Tày” của Y Phương
(Đọc tập thơ song ngữ “Vũ khúc Tày” của Y Phương)
Nhà thơ Y Phương
VNTN - Y Phương là một trong số ít những nhà thơ xuất sắc của bộ phận thơ dân tộc thiểu số hiện đại nói riêng, của nền thơ Việt Nam hiện đại nói chung. Sau những tập thơ nổi tiếng: Tiếng hát tháng giêng; Đàn then; Thơ Y Phương; Nói với con…, Vũ khúc Tày là tập thơ mới nhất của nhà thơ người Tày này. Điểm đặc biệt ở tập thơ song ngữ Việt - Tày này là cả 108 bài thơ trong tập hầu hết đều là thơ tình. Thực ra, trong các tập thơ trước, ta đã gặp rải rác không ít những bài thơ tình của Y Phương. Vậy, nếu so sánh với những bài thơ viết về tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, tình yêu quê hương của Y Phương trước đây, tập thơ tình này có gì khác biệt, có gì đặc sắc? Theo cảm nhận của tôi, tập thơ này có một số điểm đặc sắc và khác biệt sau đây:
1. Triết luận đôi khi ngậm ngùi về tình yêu chứ không chỉ mô tả đắm say về tình yêu.
Với bài thơ Em - Cơn mưa rào - Ngọn lửa in trong tập thơ Tiếng hát tháng giêng, chúng ta gặp những câu thơ tuyệt hay của Y Phương:
Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp”
Những câu thơ ấy diễn tả thật tài hoa một tình yêu nồng nàn, mang theo lòng biết ơn của nhà thơ dành cho nhân vật trữ tình “em” - người vợ: Bàn tay mềm mại kia, như có phép thần kì chạm vào cây thì búp non tơ nảy lộc - một hình ảnh tượng trưng cho sự sống, cũng bàn tay ấy “Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp” - ngọn khói bếp tượng trưng cho hạnh phúc gia đình, nhờ có bàn tay em mà hạnh phúc được vẹn nguyên trước dông bão cuộc đời. Khi viết những câu thơ này, Y Phương còn rất trẻ.
Còn trong Vũ khúc Tày, khi tuổi trẻ đã đi qua, nhà thơ viết những bài thơ tình giản dị mà nặng trĩu hơn, đó là sự chiêm nghiệm về tình yêu, để từ đó dồn nén bao triết lý nhân sinh dù buồn đau vẫn lấp lánh hi vọng và niềm tin:
(Buồn lấp lánh)
Sự tiếp nối các thế hệ chính là sự tiếp nối tình yêu vĩnh hằng trong trái tim con người. Đó chính là triết lí mà Y Phương muốn gửi gắm qua chùm hình ảnh tượng trưng mang kích thước và sắc màu kì vĩ: cha mẹ như mặt trời với bầu trời. Khi mặt trời lặn vào bóng tối thì các con như những vì sao sẽ bắt đầu hành trình sống và yêu của mình. Bởi các vì sao đã nhận sự trao gửi ánh sáng từ mặt trời và bầu trời, để tạo ra một hành trình vĩnh cửu không bao giờ đứt quãng. Bài thơ Gọi vía của Y Phương trùng tên với một bài thơ nổi tiếng của một nhà thơ người Tày khác là Mai Liễu. Đọc gần hết bài thơ, ta vẫn tưởng Y Phương đang lặp lại tứ thơ của Mai Liễu: “trên đường đời gian khó, vía đã đi lạc mất rồi”, với Mai Liễu thì “chốn đô thành - ai gọi vía cho tôi?”, với Y Phương thì “thân xác này từng lên rừng xuống bể - gọi vía”. Nhưng khi đọc đến khổ thơ kết, ta mới ngỡ ngàng nhận ra sự chuyển hướng của tứ thơ, sự đa tình giấu kín của hồn thơ Y Phương:
(Gọi vía)
Với thể thơ tự do được sử dụng linh hoạt, với sự dồn nén suy tư trong câu chữ ngắn, hàm súc, kiệm lời, tình yêu quê hương, gia đình và lứa đôi trong tập thơ này của Y Phương là tình yêu ngẫm ngợi. Một số bài có hàm ẩn sự ngậm ngùi, tiếc nuối, mang theo những triết lý nhân sinh nhiều khi không mới mà vẫn khiến chúng ta giật mình bởi nhận ra cuộc đời và tâm hồn mình trong đó:
(Bung buồn)
Còn đây là những câu thơ có cách viết và vẻ đẹp tương tự như thế:
(Tình yêu răng cưa)
Hay là:
(Tình yêu càng cho càng đầy)
Thơ Y Phương giản dị như suối nguồn trong và sâu, nhìn xuống đáy thi thoảng gặp những hạt vàng lấp lánh - đó là những biểu tượng độc đáo có tính mơ hồ đa nghĩa. Người tri âm gọi đó là vàng mười. Người vô tình gọi đó là hạt cát. Nhưng chính những biểu tượng ấy là minh chứng cho tính hiện đại và cá tính sáng tạo, độc đáo của nhà thơ, bên cạnh tính truyền thống biểu hiện trong đề tài quen thuộc, trong hệ thống thi ảnh đậm sắc thái văn hóa miền núi nói chung, văn hóa Tày nói riêng như: “Gió thổi ớt vào mặt”; “Ai có thấy vía tôi lang thang đâu không?”; “Ta hát điệu Hà Lều - Cong vênh trời và đất”…
2. Đặc sắc ở một số thủ pháp nghệ thuật yêu thích quen dùng: Điệp cấu trúc và cách nói tăng cấp hay còn gọi là “Bồi thấn”
Trong bài thơ có nhan đề và tứ thơ, hình ảnh thơ độc đáo: Xé, nhà thơ đã sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc “Ta nhớ - Ta quên - Ta yêu…” và cách nói tăng cấp để đẩy khát vọng yêu lên dần đến cao trào:
Ta yêu em trùng điệp…”
Và cao trào ấy lên tới đỉnh điểm qua một cấu trúc câu được điệp lại hai lần với cặp hình ảnh độc đáo có hai động từ vừa tượng hình vừa biểu cảm mạnh mẽ đến dữ dội:
Ta dâng lên em yêu”
Hai thủ pháp nghệ thuật kể trên cũng xuất hiện ở một loạt bài thơ khác trong tập thơ này:
(Cảm tác)
Hay là:
(Những thiên thần của tôi từ rơm đi ra)
Trong bài thơ Ta lên xe đi chơi, cấu trúc “Đời ta như…” được điệp lại sáu lần:
Các bài thơ Nghĩ về nhau, Mưa ngâu, Lãi, Câm, Sa mạc yêu, Ngơ ngác… đều sử dụng rất thành công hai thủ pháp nghệ thuật trên để gửi tới người đọc những triết lí nhân sinh sâu sắc, cao đẹp về quê hương, người thân, về những vui buồn, được mất, vinh nhục của đời người. Và có lẽ bài thơ sử dụng thành công nhất hai thủ pháp trên là bài Chiết:
Chất Tày tôi đầy lên”
Cấu trúc “tôi mài tôi - tôi đang nhỏ…” cả trực tiếp và gián tiếp được điệp lại tới 6 lần để khẳng định một thực tế đáng buồn: Rời làng Tày về thành phố, đời sống đô thị đang mài mòn dần “tâm hồn Tày” trong nhà thơ. Cách nói tăng cấp liên tiếp đẩy sự mài mòn nhỏ dần ấy đến tận cùng: “Tôi đang nhỏ hơn một hạt bụi” - sắp nhỏ hơn nửa hạt bụi - nhỏ hơn - nhỏ hơn nữa…”. Và khi chạm đến tận cùng của sự mài mòn ghê gớm thì “tôi tan loãng trong bầu không khí”. May mắn thay, đến khổ kết của bài thơ một sự hồi sinh kì diệu đã xuất hiện, gặp lại quê hương, gặp lại tiếng nói thân thương ấy thì “Bỗng thấy - chất Tày tôi đầy lên”. Nguyên tắc tương phản được sử dụng biến hóa, linh hoạt cũng là một nét đặc sắc trong tập thơ này của Y Phương.
Nguyễn Đức Hạnh
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...