Thứ năm, ngày 31 tháng 10 năm 2024
00:22 (GMT +7)

Ba nhà văn “tuổi Thân” đoạt giải Nobel văn học

Bertrand Russell (18/5/1872 - 02/02/1970): “Tuổi Nhâm Thân”; Giải Nobel Văn học 1950

Nhà triết học, toán học, nhà văn Anh, Bá tước Bertrand Arthur William Russell sinh tại Trellech, Monmouthshire, nay là Wales, có ông nội từng hai lần làm Thủ tướng. Mồ côi bố mẹ từ sớm, B. Russell rất cô đơn, thường dự tính tự tử. Trong hồi kí, ông ghi nhận rằng những mối quan tâm sâu sắc nhất của ông là tình dục, tôn giáo và toán học, và chính mong muốn hiểu biết nhiều hơn về toán học đã giúp ông không tự tử. Giành được một học bổng ngành toán, ông vào học tại Đại học Cambridge, tốt nghiệp năm 1893. Năm 1896, B. Russell xuất bản cuốn Nền dân chủ xã hội Đức. Từ năm 1908, ông là thành viên Hội Hoàng gia Anh (Royal Society), đi qua nhiều nước như Pháp, Đức, Mỹ… xuất bản nhiều công trình toán học, triết học. Đồng thời, B. Russell tích cực hoạt động xã hội, chính trị, vì chống chiến tranh ông bị phạt tù và một khoản tiền lớn. Trong tù, ông viết tác phẩm được đón nhận nồng nhiệt Dẫn nhập triết toán học (1919). Ông kết hôn bốn lần với những cuộc tình nổi tiếng; ứng cử không thành công vào Quốc hội năm 1907, 1922 và 1932; năm 1949, ông được nhận Huân chương cao quý của Anh quốc và năm 1950 nhận Giải Nobel Văn học. Những năm 1950 - 1960, B. Russell trở thành nguồn cảm hứng cho thanh niên có lí tưởng, năm 1955 cùng với Albert Einstein đưa ra Cương lĩnh Einstein - Russell kêu gọi hủy bỏ vũ khí hạt nhân; trong những năm 60, ông điều hành Quỹ Hòa bình mang tên B. Russell và cùng với J.P. Satre thành lập Ủy ban Lên án tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Mở đầu cuốn Tiểu sử tự thuật của mình, B. Russell viết: “Có ba đam mê đơn giản nhưng mãnh liệt tôi mang suốt đời: khát vọng tình yêu, khám phá khoa học và tình thương vô hạn trước những thống khổ của con người”.

Tác phẩm chính của B. Russell: Các nguyên tắc toán học (The Principles of Mathematics, 1903); Dẫn nhập triết toán học (Introduction to Mathematical Philosophy, 1919); Cơ sở của thuyết tương đối (The ABC of Relativity, 1925); Phân tích vật chất (Analysis of Matter, 1927); Tự do và tổ chức (Freedom and Organization, 1814 - 1914, 1934); Quyền lực: một phân tích xã hội mới (Power: a New Social Analysis, 1938); Về ý nghĩa và chân lí (An Inquiry Into Meaning an Truth, 1940); Triết học và chính trị (Philosophy and Politics, 1947).

Eugenio Montale (12/10/1896 - 12/9/1981): “Tuổi Bính Thân”; Giải Nobel Văn học 1975.

Nhà thơ, nhà phê bình Italia Eugenio Montale sinh tại Genova, miền Bắc Italia. Từ năm 14 tuổi bị ốm nặng không đến trường được nhưng đọc rất nhiều sách văn học, triết học, thu lượm nhiều kiến thức về văn hóa, âm nhạc, hội họa, tư tưởng nghệ thuật của những triết gia hàng đầu châu Âu. Năm 1917, ông nhập ngũ, hai năm sau trở về bắt đầu sự nghiệp văn chương. Năm 1925, ông xuất bản tập thơ đầu tiên Những chiếc mai cá mực được dư luận chú ý bởi giọng thơ cách tân khác biệt với những nhà thơ đương thời. Năm 1938 - 1948, ông dịch các tác phẩm Anh, Mỹ sang tiếng Italia. Năm 1948, ông bắt đầu viết phê bình văn học và âm nhạc cho tờ Corriere della Sera (Tin nhanh buổi chiều), một nhật báo uy tín ở Milan. Năm 1956, E. Montale cho ra đời tập thơ được đánh giá là tiêu biểu nhất của ông: Giông tố và những bài thơ khác. Các tác phẩm của ông mang đậm vẻ đẹp của nền văn hóa Italia và nêu cao tinh thần chống chủ nghĩa phát xít. Ngôn ngữ thơ ông gần với tiếng Italia bình dân. Năm 1967, ông được bổ nhiệm là Thượng nghị sĩ trọn đời của Quốc hội Italia. Năm 1975, E. Montale nhận Giải Nobel Văn học vì các tác phẩm thơ ca đặc sắc thể hiện quan điểm và cảm xúc lớn lao về một cuộc sống bị tước bỏ ảo ảnh. Chủ nghĩa bi quan mang tính toàn cầu của E. Montale không mâu thuẫn với sự ẩn nhẫn chứa đựng tia lửa của niềm tin. E. Montale còn được trao bằng danh dự của trường Đại học Roma, Cambridge, Basel.

Tác phẩm chính của E. Montale: Những chiếc mai cá mực (Ossi di sepia, thơ, 1925); Cơ hội (Le Occasioni, thơ, 1939); Giông tố và những bài thơ khác (La bufera e altro, thơ, 1956); Nhật kí năm 71 và 72 (Diario del 71 del 72, thơ); Sổ tay trong bốn năm (Quaderno di Quattro anni, thơ, 1977).

Vidiadhar Naipaul (17/8/1932): “Tuổi Nhâm Thân”; Giải Nobel Văn học 2001.

Nhà văn Anh gốc Ấn Vidiadhar Surajprasad Naipaul sinh tại đảo quốc Trinidad trong một gia đình rất nghèo. Do chăm chỉ học tập, năm 1950 ông được Chính phủ Trinidad cấp học bổng để đi học Đại học Oxford và vĩnh viễn từ giã quê hương sang sống ở nước Anh. Năm 1957, ông xuất bản tiểu thuyết đầu tay Gã tẩm quất bí hiểm viết về cuộc sống ở đảo Trinidad quê ông; năm 1961 cho ra đời kiệt tác Căn nhà cho ông Biswas, với nhân vật chính lấy nguyên mẫu từ cha ông. V.Naipaul còn được chính phủ cấp tiền đi du lịch đến hầu hết các châu lục trên thế giới, kết quả là rất nhiều các tập sách du kí ra đời. Năm 1987 và 1994, V. Naipaul xuất bản tiểu thuyết Bí ẩn khi tới và Đường vào thế giới. Năm 1990, V. Naipaul được Hoàng gia Anh phong tước hiệu Hiệp sĩ vì những đóng góp vào nền văn học khối Liên hiệp Anh. Báo Guardian gọi ông là “nhà văn tiếng Anh lớn nhất trong số các nhà văn đang sống”. Với khối lượng tác phẩm lớn và đa dạng, tài năng xuất chúng và uy tín vững vàng, đáng lẽ V. Naipaul đã được tặng Giải Nobel từ nhiều năm trước, nhưng đến năm 2001 ông mới giành được vinh dự này nhờ những tác phẩm đa văn hóa, viết theo lối tự sự mẫn cảm về lịch sử bị quên lãng của các dân tộc bị áp bức, về ảnh hưởng tệ hại của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa dân tộc đối với các dân tộc thuộc thế giới thứ ba và thế giới Hồi giáo. Ngoài Giải Nobel, ông còn nhận nhiều giải văn chương khác cũng như bằng danh dự của các trường Đại học St.Andrew, Columbia, Cambiridge, Oxford… Đến nay, V. Naipaul đã viết gần 30 tác phẩm gồm cả tiểu thuyết (chủ yếu là giả tưởng và phản giả tưởng) và tiểu luận.

Tác phẩm chính của V. Naipaul gồm: Gã tẩm quất bí hiểm (The Mystic Masseur, tiểu thuyết, 1957); Phố Miguel (Miguel Street, tiểu thuyết, 1959); Căn nhà cho ông Biswas (A House for Mr. Biswas, tiểu thuyết, 1961); Ngài Stone và các bạn hiệp sĩ (Mr. Stone and the Knights Companion, tiểu thuyết, 1963); Khúc quanh của dòng sông (A Bend in the River, tiểu thuyết, 1979); Giữa những tín đồ (Among the Believers, truyện kí, 1981); Đằng sau đức tin: Một chuyến đi Hồi giáo (Beyond Belief: Islamic Excursions, khảo luận tôn giáo, 1998)…

Vĩnh Phước (tổng hợp)

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy