Hiếm có động vật nào hội tụ cả sức mạnh và vẻ đẹp, sự hung bạo cũng như nên thơ, vừa ẩn mình nhẫn nại cũng như phô diễn sức mạnh tuyệt đối khi thời cơ đến, vừa được kính yêu, tôn thờ nhưng đồng thời cũng là nỗi khiếp sợ của con người như loài hổ. Được gọi tên theo nhiều cách khác nhau như: hổ, hùm, cọp, lệnh, ông kễnh, chúa sơn lâm, ông ba mươi, chúa rừng xanh… hình tượng hổ xuất hiện từ xa xưa, gắn bó với đời sống của con người, đặc biệt là những quốc gia châu Á, nơi phân bố chính của hổ trên thế giới. Ở Việt Nam, hình tượng hổ chủ yếu được thể hiện qua nghệ thuật hội họa, điêu khắc và văn học. Nếu hội họa và điêu khắc phần lớn cho thấy vẻ đẹp, sức mạnh, oai linh của chúa sơn lâm thì qua văn chương, hình tượng hổ biến hóa hết sức đa dạng và mang tới nhiều thông điệp ý nghĩa.
Trong văn học dân gian Việt Nam, hình tượng hổ xuất hiện qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn khá đậm nét. Để khắc họa sức mạnh, những tai họa mà hổ mang tới, nỗi sợ của con người khi đối diện với hổ có nhiều câu thành ngữ như: Cưỡi lên lưng hổ, Sa vào miệng cọp, Cọp Khánh Hòa - ma Bình Thuận, Ký ca ký cóp cho cọp nó xơi… Hình tượng hổ cũng có mặt trong chuyện ăn tưởng hết sức đời thường: Ăn như hùm như hổ hay Nam thực như hổ, nữ thực như miêu. Nói về kẻ độc ác, hung dữ với con mình, dân gian ví còn ác hơn hổ bởi Hổ dữ không ăn thịt con; nói về kẻ bất tài, lợi dụng uy danh của người khác có câu: Cáo mượn oai hùm; nói về sự bất lực của bậc chính nhân quân tử khi thất thế có câu Trời sinh hùm chẳng có vây/ Hùm mà có cánh hùm bay lên trời… Hình tượng hổ trở nên quen thuộc, được ví von trong những tình huống của đời sống hàng ngày, trong những nỗi niềm, tâm trạng của người dân.
Các tích truyện dân gian xuất hiện hình tượng hổ cũng không ít như: Ông nghè hóa cọp, Người hóa hổ, Trí khôn của ta đây… Trí khôn của ta đây là một truyện cổ tích quen thuộc với người Việt, truyện cũng đã được đưa vào sách giáo khoa để dạy học sinh. Truyện kể về một con hổ tò mò muốn biết trí khôn của con người ra sao nên đến hỏi bác nông dân. Bác nông dân tương kế tựu kế đã trói hổ vào cột và châm lửa đốt, từ đó trên lưng hổ có nhiều vằn đen dài, dấu tích của những vết cháy ngày xưa. Truyện đề cao sự bình tĩnh, mưu trí của con người khi đối diện với sức mạnh dữ dội của tự nhiên, qua đó ca ngợi tài trí của con người. Ông nghè hóa cọp là truyện một anh nhà giàu hống hách. Sau khi đỗ ông nghè nhờ dùng tiền lo lót, anh ta về vinh quy bái tổ. Khi đoàn rước dừng lại, nghỉ chân tại một khu rừng, ông nghè thấy nóng nên xuống suối tắm. Tắm xong khắp mình ngứa ngáy, lông lá mọc đầy và biến thành cọp. Từ đó, con cọp chuyên rình bắt người qua đường, trở thành nỗi khiếp sợ của khách bộ hành. Nhưng con cọp vẫn nhớ người, nhớ quê, thỉnh thoảng “trong đêm khuya thanh vắng người ta còn nghe nó khóc thút thít”(1). Một hôm gặp người làng, nó kể lại sự tình, nhờ anh người làng chăm sóc mẹ già, vợ con rồi từ đó đi hẳn vào sâu trong rừng rậm, không ăn thịt người qua lại nữa. Truyện Người hóa hổ kể về một anh hàng nồi ở Thanh Hóa, thường qua lại bán hàng ở vùng núi Tam Điệp, Ninh Bình. Một hôm anh bị lạc, được một ông già dẫn về nhà nghỉ qua đêm, tỉnh dậy anh thấy ông già là một con hổ lớn và bản thân mình cũng bị biến thành hổ. Từ đó, anh phải đi săn mồi mang về cho hổ chúa. Nhưng anh nhớ gia đình, vợ con, một hôm trở lại làng cũ, quẩn quanh góc sân nhìn vợ dại, con thơ. Khi anh về rừng hổ chúa tức giận cắn xé, lớp da hổ rách toạc, anh hàng nồi trở lại làm người bỏ chạy và thoát khỏi móng vuốt hổ. Sau này, anh kể lại khi là hổ thì “ăn ngủ, đi lại đều giống hổ, duy chỉ có tâm địa mình thì không phải loài thú mà thôi”(2). Trong kiểu truyện người hóa hổ này có thể thấy dù tập tính sinh hoạt như dã thú nhưng sâu thẳm bên trong con thú vẫn còn phẩm tính con người: biết thương nhớ quê hương, gia đình, nhớ cuộc đời bình dị và khao khát muốn trở lại làm người. Người tàn bạo, hung ác có thể hóa hổ, hổ cũng có thể hóa người. Những chuyện kể về người hóa hổ ngay từ xa xưa đã thể hiện sự gần gũi giữa con người và tự nhiên, mối quan hệ giữa thú tính và nhân tính trong cùng một đối tượng. Qua đó, cho thấy cái nhìn giàu hiểu biết, sâu sắc và đầy bao dung của người bình dân xưa.
Qua văn chương, hình tượng hổ biến hóa hết sức đa dạng và mang tới nhiều thông điệp ý nghĩa (nguồn ảnh: internet)
Thời trung đại, Vũ Trinh có truyện Con hổ có nghĩa, khá nổi tiếng, truyện sau này được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ văn 6 (3) dạy ở Trung học cơ sở. Truyện kể về bà mụ Trần đỡ đẻ cho hổ cái, được hổ trả ơn một cục bạc lớn, nhờ đó mà bà mụ qua được cơn mất mùa đói kém; truyện còn kể về một bác tiều phu ở huyện Lạng Giang đã gỡ giúp hổ khúc xương bò mắc ngang họng gây đau đớn. Hổ nhớ ơn, sau này săn được gì cũng mang một phần biếu bác. Khi bác tiều phu mất, hổ đến trước mộ dụi đầu vào quan tài đau đớn. Ngày giỗ bác, hổ luôn tha lợn hay dê đến trước cửa nhà. Dân làng ai cũng khen hổ là con vật có tình, có nghĩa. Truyện của Vũ Trinh đã xây dựng hình tượng hổ gần gũi với con người. Ở đây, hổ dù vẫn là chúa sơn lâm, sống nơi rừng thiêng nước độc nhưng lại mang theo những phẩm chất tốt đẹp của con người như biết vui buồn, biết lưu luyến, xúc động, biết đau đớn, xót xa khi ân nhân mất, biết trả ơn, sống tình nghĩa trước sau. Có thể thấy, dụng ý răn đời khá rõ trong truyện của Vũ Trinh. Tác giả muốn hướng tới thông điệp: loài cầm thú hoang dã như con hổ còn biết sống nghĩa tình sau trước huống chi là con người?
Hình tượng hổ đi vào văn, thơ Việt Nam hiện đại như một sự tiếp nối của truyền thống. Bài thơ nổi tiếng nhất viết về con hổ không thể không nhắc tới là Nhớ rừng của Thế Lữ. Mượn hình tượng một con hổ, vị chúa tể muôn loài rơi vào cảnh sa cơ, lỡ bước, bị nhốt trong cũi sắt nơi vườn bách thú, nhà thơ bày tỏ khao khát tự do mãnh liệt và tâm sự yêu nước cháy bỏng của mình trong hoàn cảnh đất nước đau thương. Thế Lữ đã viết những câu thơ tuyệt bút về hổ cũng như về nỗi u hoài của con người khi nhớ tiếc quá khứ vẫy vùng, tự do: Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối/ Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan/ Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn/ Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới/ Đâu những bình minh cây xanh nắng gội/ Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng/ Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng/ Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt/ Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật/ Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?” (Nhớ rừng).
Sau Thế Lữ, nhà thơ tài hoa Quang Dũng, khi viết về núi rừng miền Tây hoang sơ, dữ dội, đầy nguy hiểm, địa bàn hoạt động chủ yếu của đoàn binh Tây Tiến, đã có những câu thơ gây ấn tượng mạnh: Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (4) (Tây Tiến). Hai câu thơ gợi ra không gian kì vĩ của núi rừng với tiếng thác xối dữ dội như gầm thét, với bóng dáng đầy đe dọa của chúa sơn lâm lởn vởn mỗi đêm. Cọp hay hổ trong câu thơ này giúp Quang Dũng tái hiện rõ sự khắc nghiệt mà người lính Tây Tiến phải đối diện. Hiểm nguy không chỉ đến từ phía địch, tai họa còn đến từ đại ngàn, cái chết luôn rình rập, theo sát mỗi bước chân anh bộ đội Cụ Hồ. Từ đó, nhà thơ khắc sâu vẻ đẹp cứng rắn, khí phách ngang tàng, vượt lên mọi gian nan, thử thách của đoàn quân Tây Tiến. Khác với hai nhà thơ tiền bối, tác giả Thụy Anh lại viết về hai chú hổ nhỏ đang đợi mẹ về với những câu thơ hết sức dịu dàng: Áp tai liếm láp/ Chải lông thật mềm/ Sửa soạn đón mẹ/ Cũng vừa hết đêm/ Tiếng gầm dữ dội/ Phía núi xa xôi/ Mẹ gọi mình đấy/ Dịu dàng quá thôi (Ngóng mẹ - Thụy Anh). Có thể thấy, từ những góc nhìn khác nhau, mỗi nhà thơ lại khám phá một vẻ đẹp riêng của hổ, từ đó gửi gắm những nỗi niềm, những tâm tư thật phong phú và sinh động. Ngoài ba tác giả trên, khó có thể tìm thêm nhà thơ nào khác cũng viết về hổ.
Ngược lại, trong văn xuôi đương đại, hình tượng hổ khá phong phú, đa dạng. Có thể kể tới: Tìm mẹ (Nguyễn Huy Tưởng), Chuyện cái xóm tha hương ở cửa rừng Suối Cát và con hùm con mồ côi (Nguyên Hồng), Ông Pồn và chú hổ con (Ma Văn Kháng), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Mùi cọp (Quý Thể)… Hình tượng hổ trong các truyện nói trên phần lớn phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên hoang sơ. Trong quá trình khai phá, chinh phục tự nhiên, con người phải đối diện với thú dữ, hiểm nguy để đảm bảo sự sống cho mình. Ở Đất rừng phương Nam, hình tượng hổ gắn liền với sức mạnh hoang dã, đầy đe dọa của thiên nhiên, hổ là tai ương, là cái chết. Cậu bé An và tía nuôi khi đi rừng lấy mật ong, bắt rắn đã nhiều lần chạm trán với hổ. Trước khi hổ xuất hiện thường vang lên tiếng kêu của con chim thiêng, con chim báo hiệu Thần Chết tới, đầy đe dọa. Hổ là biểu tượng của Thần Chết, cái chết, thách thức con người trong cuộc chiến đấu một mất một còn. Chú Tư Võ Tòng đã từng bị hổ vồ suýt mất mạng, sau này, một mình chú đã hạ tới hai mươi con hổ. Như vậy, Đất rừng phương Nam cho thấy mối quan hệ tương sinh tương khắc giữa con người và tự nhiên, trong mối quan hệ đó, sức mạnh hoang dã, mang tính hủy diệt của tự nhiên phải khuất phục trước tài trí của con người nhỏ bé. Tìm mẹ của Nguyễn Huy Tưởng vẫn tiếp nối mạch truyện của dân gian khi xây dựng hình tượng tên chúa đất gian tham, độc ác đã bị biến thành hổ dữ, cuối cùng phải trả giá bằng cái chết đau đớn. Truyện về hổ của Ma Văn Kháng và Nguyên Hồng viết về sự yêu thương, chăm sóc của con người đã biến hổ dữ thành đứa trẻ ngoan hiền, thành con vật tình nghĩa, quấn quít với con người. Ông Pồn thương con hổ con mất mẹ đã chăm sóc và nuôi dưỡng nó như một đứa trẻ, đã trò chuyện, tâm tình với nó như với một con người. Khi ông Pồn mất, hàng tuần nó đều tha lợn rừng về cúng mộ ông, “thi thoảng, nó còn về nằm cạnh mộ ông, chân trước chân sau duỗi dài, điệu bộ rất uy nghiêm và ngoan ngoãn như hồi nào nằm canh ao, thực thi nhiệm vụ ông giao”(5). Và cuối truyện, nhà văn nhắn nhủ rằng con thú có chỗ rất xa con người nhưng có chỗ nó cũng rất gần với con người (Ông Pồn và chú hổ con - Ma Văn Kháng). Người hóa thú hay thú biết yêu thương, xúc động như người, đó cũng là lẽ thường của tạo hóa, của cuộc đời. Chính những tương tác với thiên nhiên, giữa con người và con người sẽ làm bộc lộ tính người của thú hay thú tính trong người là điều tất yếu. Cũng như ông Pồn trong truyện của Ma Văn Kháng, bà cụ Trong ở cái xóm tha hương với tấm lòng hiền hậu, ấm áp đã cưu mang, nuôi dưỡng con hổ con mồ côi như nuôi một đứa trẻ mất mẹ tội nghiệp. Bà cụ nghĩ “Hùm ở trong rừng là hùm dữ, hùm về tay người là chó hiền”(6), rồi bà đặt tên cho con hùm con là con Hiền. Con hùm con lớn lên trong tình yêu thương, trong sự dạy bảo vừa ân tình, dịu dàng vừa nghiêm khắc của bà cụ và nó là một con hổ hiền như tên bà cụ đặt. Câu chuyện còn diễn biến với nhiều tình tiết gay cấn và phức tạp nhưng đều tập trung khắc họa tình yêu thương sâu sắc giữa con người và con hổ, sự chí tình của con hổ với người, hổ và người cùng đồng hành trên đường đời gian truân, hiểm ác. Bên cạnh hình tượng hổ trong tự nhiên, truyện ngắn Mùi cọp của nhà văn Quý Thể lại mang tới hình tượng hổ trong không khí hiện đại của thành phố. Những con hổ xuất hiện trên sân khấu xiếc, ngoan ngoãn thực hiện màn biểu diễn đặc sắc dưới sự điều khiển của một người con gái nhỏ nhắn, xinh đẹp. Truyện ngắn giàu kịch tính, mang tới nhiều thông điệp về tình yêu, về giá trị, về sự không tương xứng giữa học thức và nhận thức, giữa vị kỉ và vị tha… Nhưng thông điệp chính như tên gọi của tác phẩm xoay quanh hình tượng hổ. “Mùi cọp” chính là “thẻ” nhận diện bạn hay thù. Xã hội càng hiện đại, thì quan hệ giữa con người và tự nhiên càng mong manh, dễ vỡ, mọi sơ suất nhỏ nhất cũng khiến con người phải trả giá đắt bằng chính mạng sống của mình.
Hổ, vị chúa sơn lâm uy dũng đã “bước” từ đại ngàn vào văn học dân gian, văn học trung đại và tiếp tục có mặt trong thơ văn hiện đại của Việt Nam cho thấy sự yêu quý, gắn bó của con người với loài mãnh thú này. Hình tượng hổ vốn đại diện cho sức mạnh hoang dã của tự nhiên khi hiện ra qua văn chương, mặt khác cũng cho thấy trong quá trình tương sinh tương khắc với tự nhiên, con người đã tìm thấy mình, nhận ra mình, tự hào hay xấu hổ về mình đều là những cách thức khác nhau để mỗi ngày một hoàn thiện hơn vẻ đẹp của nhân tính của con người.
(1): https://truyencotich.vn/truyen-dan-gian/nghe-hoa-cop.html
(2): Hoàng Oanh (kể), Người hóa hổ, Nxb Mỹ Thuật, H., 2011.
(3): Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên), Ngữ văn 6, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, tái bản lần thứ chín), Hà Nội, 2011.
(4): Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, Nxb Giáo dục Việt Nam, Tái bản lần thứ 3, 2011, tr.88.
(5): Ma Văn Kháng, Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, 2013, tr.29.
(6): Nguyên Hồng, Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, 2013, tr.31.
Trịnh Đặng Nguyên Hương
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...