Thứ tư, ngày 08 tháng 05 năm 2024
12:03 (GMT +7)

Di sản then và những nhầm lẫn trong nhận diện

Ngày 12 tháng 12 năm 2019, di sản then Việt Nam chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là một trong những tín hiệu rất đáng mừng cho thấy nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa như hiện nay.

Đối với người Tày, Nùng, Thái, then là một phần của tâm hồn và ký ức. Tiếng tính, lời then gắn chặt với đời sống của đồng bào ngay từ khi mới lọt lòng, đưa nôi cho đến khi trưởng thành. Khi nhắm mắt xuôi tay, tiếng then lại dìu dặt đưa linh hồn con người về với tiên tổ. Nhìn lại sự hình thành và phát triển của then trong giai đoạn hiện nay ta thấy có khá nhiều những mâu thuẫn trong sự nhận diện di sản. Từ sự mâu thuẫn đó đã gây ra nhiều sự nhầm lẫn đối với di sản then.

Thứ nhất: Sự nhẫm lẫn giữa then với các loại hình dân ca khác

Trong cuốn Tìm hiểu dân ca Việt Nam(1), tác giả Phạm Phúc Minh chia dân ca Việt Nam thành 04 thể loại cơ bản là dân ca lao động, dân ca phong tục tập quán, dân ca tín ngưỡng và dân ca lịch sử. Theo cách phân chia này thì dân ca Tày, Nùng, Thái cũng có đầy đủ các thể loại như trên. Trong đó, di sản then với tư cách là một loại hình dân ca thuộc nhóm dân ca tín ngưỡng. Nghĩa là môi trường diễn xướng nguyên bản của then chính là môi trường tín ngưỡng, tôn giáo. Chính vì điều này nên bản thân danh từ then(2), những tên gọi khác của loại hình diễn xướng này như pựt, vửt, sliên(3) … đều là những tên gọi gợi nên sự linh thiêng. Tuy vậy, rất nhiều người bao gồm cả những nhà nghiên cứu đã có sự nhầm lẫn giữa then với các loại hình dân ca khác của người Tày, Nùng, Thái về tính chất và ngôn ngữ. Điều này gây ra những hiểu lầm không đáng có đối với những người ở ngoài vùng Tày, Nùng, Thái khi tiếp cận văn hóa các tộc người này.

Trình diễn tiết mục then sân khấu

Một trong những sự nhầm lẫn cơ bản chính là việc đánh đồng khái niệm giữa hát then và hát lượn. Hát lượn là loại hình dân ca giao duyên phổ biến ở vùng người Tày. Tùy từng địa phương mà người Tày có những hình thức hát lượn khác nhau như lượn slương ở vùng Lạng Sơn, lượn cọi ở Cao Bằng, Tuyên Quang, lượn yếu ở Hà Giang, Yên Bái,… Do là dân ca giao duyên, đối đáp nên môi trường hát lượn không phải tín ngưỡng mà là sinh hoạt đời thường. Theo NSƯT Hoàng Thị Quỳnh Nha khi chiết tự chữ lượn theo chữ Hán chính là chữ luân 轮 (tức là bánh xe/ chuyển động). Từ cách viết này ta có thể hiểu chữ lượn trong hát lượn ám chỉ sự vận hành của câu hát từ người hát đối sang người hát đáp giống như vòng quay của chiếc bánh xe hoặc đơn thuần, lượn chính là sự chuyển động của hành động ca hát giữa những người tham gia.

Thực hành nghi lễ then

Từ cách chiết tự tên gọi hát lượn đã được văn bản hóa thì ta có thể nhận định rằng lượn là một hình thức ca hát khác biệt về tính chất so với hát then. Tuy nhiên nhiều tác giả khi nghiên cứu âm nhạc dân gian Tày không căn cứ trên chiết tự mà chỉ theo phương ngôn đơn thuần nên đã đánh đồng từ lượn trong tiếng Tày với động từ ca hát trong tiếng Việt. Bằng cách lý giải đó, họ quy chụp then cũng là một hình thức hát lượn. Cách hiểu này hoàn toàn sai so với hệ thống văn bản lượn đã được ghi lại bằng chữ Nôm Tày và vô tình biến từ lượn vốn thuộc động từ trở thành danh từ. Điều rất đáng quan tâm hơn đó là cách hiểu này sẽ làm quá trình nhận diện các hình thức dân ca Tày, Nùng, Thái nói chung và dân ca Tày nói riêng trở nên khó khăn, rối rắm. Trên thực tế, trong hệ thống dân ca dân tộc Tày có một hình thức hát lượn tên là lượn then phổ biến ở các huyện Quảng Hòa, Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng, nhưng đây là trường hợp đồng âm khác nghĩa(4).

Thứ hai: Sự nhầm lẫn giữa thực hành tín ngưỡng then (then tâm linh) và then sân khấu

Đây là một trong những sự nhầm lẫn rất phổ biến hiện nay của đa số quần chúng nhân dân khi tiếp cận với di sản then. Đa phần những người ở ngoài phạm vi của văn hóa Tày, Nùng, Thái hoặc thậm chí cả một số người sinh trưởng ở vùng văn hóa này nhưng không được tiếp xúc với diễn xướng then đúng nghĩa thường cho rằng then là một dạng dân ca sinh hoạt của người Tày, Nùng, Thái. Như ta đã biết, then là một dạng thực hành tín ngưỡng dân gian của người Tày, Nùng, Thái và môi trường của nó là không gian nghi lễ chứ không phải trên sân khấu. Sau này then được cải biên, đưa lên sân khấu và trở thành một loại hình nghệ thuật biểu diễn.

Do then sân khấu có nhiều yếu tố đã được nâng cao về nghệ thuật và nội dung phù hợp với từng thời kỳ lịch sử nên được quảng bá một cách sâu rộng hơn then tâm linh. Tuy có khác nhau về tính chất, môi trường diễn xướng nhưng hai dòng then này vẫn chảy trong văn hóa Tày, Nùng, Thái và đều trở thành giá trị rất đáng trân quý. Như vậy ở đây, khâu quảng bá then của chúng ta đang gặp rất nhiều vấn đề và việc chưa chuyển tải được bộ nhận diện của then đến với công chúng là một vấn đề cơ bản. Những năm qua khi theo dõi chương trình phục vụ khán giả dịp Tết nguyên đán của đài VTC, ta đã thấy có chương trình “Vấn hầu đầu xuân” trình diễn lên đồng - di sản thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ - thì nên chăng cần đưa thêm cả diễn xướng then để khán giả có thêm cái nhìn rõ ràng hơn về then.

Tuy nhiên trong mối tương quan giữa 2 hình thức then này ta không được phủ nhận vai trò của dòng then sân khấu. Sự xuất hiện của dòng then sân khấu có lẽ từ những năm 50 của thế kỷ trước.

Đây là thời kỳ đất nước bước vào công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Văn hóa nghệ thuật lúc này cũng là một thứ vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng giúp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đồng lòng nhất trí và củng cố tinh thần vì mục tiêu chung. Những giá trị tinh túy và gần gũi nhất trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của các vùng miền, tộc người luôn là ưu tiên số một để đưa lên sân khấu hoặc các chương trình phát thanh. Đối với vùng đồng bào Tày, Nùng, Thái, giai điệu êm đềm của hát then và tiếng đàn tính dìu dặt bao đời nay đã là tiếng hát của tâm hồn, nó rất gần gũi với đồng bào hơn bất kỳ loại hình dân ca nào khác. Do vậy nên việc đưa hát then lên sân khấu để đồng nhịp với sự vận động chung của nền văn hóa - nghệ thuật cách mạng là điều hiển nhiên.

Những bài then của một thời kháng chiến hào hùng được phát từ đài phát thanh Khu Tự trị Việt Bắc như Co lùng hua bản (cây đa đầu làng), Phua bộ đội mìa dân quân (chồng bộ đội vợ dân quân), Năm qua thắng lợi vẻ vang,… góp phần không nhỏ cho sự nghiệp vệ quốc cũng như xây dựng đời sống văn hóa - nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện của then sân khấu còn có một vai trò quan trọng nữa là phục vụ nhu cầu được nghe then và hát then của đồng bào Tày, Nùng, Thái một cách thường xuyên. Đó là sự vận động phù hợp của then đối với hoàn cảnh lịch sử. Bên cạnh đó, sự ra đời của dòng then mới còn là phương cách để then tồn tại trước những sự biến động của đời sống xã hội.

Như ta đã biết, trong một thời gian dài do sự tác động của chiến tranh, loạn lạc và sự nhìn nhận không đúng đắn nên thực hành then gần như đã bị đứt gãy. Sự đứt gãy thể hiện ở việc các nghệ nhân bỏ nghề, không tìm được truyền nhân và các nghi lễ gắn với thực hành then trong gia đình, làng bản bị gián đoạn. Ngày nay, rất nhiều khu vực trước đây vốn là “thánh địa” của then mà giờ không còn nghệ nhân hoặc nghệ nhân rất ít như các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Hà Giang,… Do vậy sự xuất hiện của then mới góp phần không nhỏ trong việc bảo tồn di sản thực hành then tín ngưỡng.

Vai trò tương hỗ của then mới đối với thực hành then tâm linh là việc giúp hình thức then này không bị lãng quên trong cộng đồng và là tiền đề cơ sở để khôi phục vốn di sản văn hóa quý báu. Trên thực tế, đã có rất nhiều nghệ nhân thực hành nghi lễ then tâm linh có xuất phát điểm ban đầu là các hạt nhân phong trào hát then văn nghệ địa phương như NNƯT Nguyễn Văn Thọ, nghệ nhân Bế Trung Kiên, nghệ nhân Chu Văn Minh (Lạng Sơn), NNND Nguyễn Đăng Lưu (Bắc Kạn),... Ngoài ra để nâng cao tay nghề, các nghệ nhân thực hành then vẫn tìm đến học thêm cách hát then và cách đánh đàn tính tại các CLB then ở địa phương. Điều này thể hiện mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa thực hành then tâm linh với then sâu khấu.

Thứ ba: Sự mai một trong ngôn ngữ khi nhận diện then

Hiện nay chúng ta vẫn thường dùng từ then để chỉ tất cả những giá trị bao hàm trong loại hình diễn xướng này như hát then, múa then, đàn then, nghi lễ then, ông then, bà then,… Cách gọi này tuy không sai vì ở một số tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang và một phần Thái Nguyên sử dụng danh từ then nhưng vô tình lại làm mất đi tính đa dạng của ngôn ngữ Tày, Nùng, Thái. Ở vùng tam giác Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, những người thực hành then là nữ giới được gọi là pựt/ vửt/ phjựt/ ón, những người nam giới được gọi là chàng/ giàng. Danh từ chung này thường được đặt trước tên của nghệ nhân. Ví dụ bà then tên là A thì sẽ được gọi là Pựt A, ông then tên B sẽ được gọi là Giàng B. Dòng then Nùng thường kết hợp chữ Pựt hoặc Chàng với họ của nghệ nhân.

Tranh cổ động: Đào Tuấn

Ví dụ như nghệ nhân Mông Thị S thường được gọi là Pựt Mùng (Mùng nghĩa là họ Mông trong tiếng Nùng). Cá biệt ở vùng Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), cả nam và nữ tham gia nghề làm then đều được gọi chung là Vửt. Trong đó, từ Pựt được dùng phổ biến hơn cả, khi tổ chức cuộc lễ then đồng bào gọi là hất pựt, đại lễ lẩu then được gọi là lẩu pựt,... Do không nắm được điều này nên những cách gọi như Pựt A, Giàng B (cách gọi tên các thầy then theo đúng dân gian) ngày nay đã bị thay thế thành Then A, Then B,… Tất nhiên để định hình một loại hình di sản ta cần phải tìm ra điểm chung có tính phổ biến nhưng vẫn cần nhìn nhận và giới thiệu một cách đầy đủ để có thể thấy được sự đa dạng tồn tại trong di sản đó. Đây là điều cần thiết vì nếu không quan tâm tuyên truyền để thay đổi sự nhận thức thì ngôn ngữ trong then sẽ mất đi sự đa dạng và ngày càng thu hẹp lại.

Con đường hình thành, phát triển cũng như biến đổi của di sản luôn luôn gắn liền với từng chặng đường lịch sử cụ thể. Di sản then của các tộc người Tày, Nùng, Thái cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tuy nhiên do nhiều thiếu sót cả chủ quan và khách quan trong quá trình quảng bá then nên tạo nên những hiểu lầm đối với loại hình di sản này. Điều đó đặt ra rất nhiều câu hỏi cho công tác quản lý văn hóa, nghệ thuật và di sản. Câu hỏi lớn nhất đó là làm sao cho việc nhận diện di sản then thực sự đúng đắn và chuẩn xác. Từ sự nhận diện một cách tích cực này sẽ làm cho di sản được bảo tồn một cách hữu hiệu và tránh được những biến đổi tiêu cực.


Nguyễn Văn Bách

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy