Thứ tư, ngày 23 tháng 10 năm 2024
05:29 (GMT +7)

Bác Hồ với cụ Huỳnh Thúc Kháng

VNTN - Cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947), chí sĩ yêu nước nổi tiếng, quê làng Thanh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm Canh Tý (1900), cụ thi hương và đậu Giải nguyên. Năm Giáp Thìn (1904), cụ đỗ Tiến sĩ. Là một trong những nhân vật lãnh đạo phong trào Duy Tân, cụ bị chính quyền thực dân Pháp bắt (1908), đày ra Côn Đảo suốt 13 năm (từ 24-2-1908 đến 2-1921).

 

Cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876 - 1947)

Năm 1926, cụ ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ và được bầu làm Viện trưởng. Hai năm sau, cụ rút khỏi nghị trường sau bài diễn văn nổi tiếng đọc tại Viện Dân biểu Trung Kỳ, ngày 1-10-1928, mà dư luận lúc bấy  giờ cho đó là một bản cáo trạng công khai lên án chế độ thực dân tàn bạo và lỗi thời. Năm 1927, cụ sáng lập báo Tiếng Dân, tờ báo chính trị đầu tiên xuất bản ở Huế, và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này cho đến khi tờ báo bị đình bản (1943).

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã ở tuổi 70. Đối với Cụ, Cách mạng Tháng Tám đã mở ra cho đất nước một mùa xuân:

“Hồn nước từ đây trời mở cửa

Đố ai ngăn đặng ngọn Xuân trào”.

 

Cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi hai bức điện mời cụ Huỳnh ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, lần đầu Cụ từ chối vì tuổi cao sức yếu, nhưng lần hai thì Cụ đồng ý ra Hà Nội gặp Bác.

Ngày 24-2-1946, Ủy ban Hành chính Trung Bộ cho xe qua tòa soạn báo Tiếng Dân đưa Cụ Huỳnh ra Thủ đô. Buổi gặp đầu tiên giữa hai tấm lòng yêu nước, thương dân thật chân thành và cảm động. Bác Hồ nói: “Việc mời Cụ ra nhậm chức Bộ trưởng Nội vụ là ý kiến chung của tất cả anh em các đảng phái, chứ không phải ý kiến riêng của tôi, vì Cụ ở lại trong nước, Cụ biết rõ trình độ tiến bộ của đồng bào ba kỳ, đồng thời đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm Cụ”.

Cụ Huỳnh nói: “Tôi ra đây là cốt gặp Cụ, chớ lúc này là lúc cần tăng gia sản xuất mà tôi không biết cầm cày, cầm cuốc; lại cần phải kháng chiến mà tôi lại không mang súng nổi. Cụ nên kiến nghị người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn”. Nhưng Bác Hồ vẫn kiên trì thuyết phục, nên Cụ Huỳnh đã vui vẻ nhận lời tham gia Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Bác Hồ bố trí Cụ Huỳnh ở ngay trên tầng lầu Bắc Bộ phủ. Hai Cụ hay ăn sáng với nhau, thường là xôi và bánh tráng.

Câu chuyện Bác Hồ kiên trì mời bằng được Cụ Huỳnh Thúc Kháng tham gia Chính phủ là một ví dụ điển hình về sự trọng dụng nhân tài của Bác.

Mừng Xuân 1946, Cụ Huỳnh làm câu đối nói lên tấm lòng yêu nước thương dân chí thiết:

“Trẻ lại với xuân, nước tổ bốn nghìn năm lịch sử.

Đứng lên làm chủ, quyền người hai chục triệu lâm sinh”.

Ngày 2-3-1946, tại cuộc họp đầu tiên của Quốc hội, khi giới thiệu danh sách Chính phủ liên hiệp để Quốc hội thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày: “Bộ Nội vụ: một người đạo đức danh vọng mà toàn quốc ai cũng biết: Cụ Huỳnh Thúc Kháng”.

Sau đó, Cụ Huỳnh được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt), Bác Hồ làm Hội trưởng danh dự. Trả lời một nhà báo nước ngoài, Bác nói: “Hội Liên hiệp Quốc dân là do những người lão thành có danh vọng đạo đức như Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Cụ Bùi Bằng Đoàn v.v… và những người yêu nước không đảng phái đứng ra tổ chức…”

Bác Hồ đối với Cụ Huỳnh như đối với người thân. Có một chai tương Nam Đàn do bà Nguyễn Thị Thanh, chị gái của Bác, đem ra làm quà, Bác cũng mời Cụ Huỳnh dùng cơm để cùng thưởng thức hương vị quê hương xứ Nghệ. Nhân dân Thái Bình có lần gửi biếu Bác hai chai mắm tôm đặc sản, Bác đã gửi biếu Cụ Huỳnh một chai.

Ngày 31-5-1946, Bác Hồ rời Hà Nội đi Pháp để đàm phán với Chính phủ nước này. Bác đã ủy nhiệm Cụ Huỳnh làm Quyền Chủ tịch nước trong thời gian dài Bác đi vắng. Tại sân bay Gia Lâm, sắp đến giờ lên máy bay, Bác Hồ tới nắm tay cụ Huỳnh nói: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong Cụ “dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái không thay đổi đế đối phó với muôn sự thay đổi”.

Trước đó, có lần gặp Bác, Cụ Huỳnh ứng tác:

“Năm mươi sáu tuổi vẫn chưa già

Cụ ông thấy, Cụ bà không?”

Lúc ấy, Bác chỉ cười. Sau này, khi sang Pháp, Bác thường xuyên có điện văn về nước hỏi tình hình và thăm Cụ Huỳnh. Bác còn có riêng một bài thơ gửi Cụ Huỳnh:

“Nghĩ rằng ra thơ để trả lời

Nhớ ơn Cụ lắm Cụ Huỳnh ơi!

Non sông một mối chung nhau gánh

Độc lập xong rồi cưới vợ thôi”.

Thời gian Bác Hồ ở Pháp, Cụ Huỳnh đã có bài thơ ca ngợi Người:

“Tung hoành bể Sở với non Ngô

Đàm lược ai hơn Chủ tịch Hồ

Mưa gió dãi dầu bao tuế nguyệt

Nước non gây dựng một cơ đồ

Sen kia chẳng ngại hôi bùn lấm

Tùng nọ bao phen ngọn gió xô

Khắp cả ba kỳ đều tín nhiệm

Rộn ràng muôn miếng tiếng hoan hô”.

Cuối năm 1946, Cụ Huỳnh lên đường vào Nam Trung Bộ với chức vụ Đại diện Chính phủ Trung ương. Khi đến Đô Lương (Nghệ An), Cụ Huỳnh viết bài thơ: “Thất thập tự thọ”:

“Gẫm ta, ta cũng nực cười!

Nhà nhà ba cõi, người người bốn phương.

Nghĩ đến nước, đến làng, đến họ

Có hay không? Không có, có không?

Bảy tuần, đầu bạc như bông,

Được người tri kỷ, thôi xong đã già”.

Tháng 3-1947, vào đến Quảng Ngãi, Cụ Huỳnh không may lâm bệnh nặng, biết không qua khỏi, ngày 14-4-1947, đã gửi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ở chiến khu Việt Bắc một bức điện thư với những lời cuối cùng hết sức cảm động: “Tôi bệnh nặng, chắc không qua khỏi. Bốn mươi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã thực hiện, thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc không được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân lên đường vinh quang hạnh phúc. Chào vĩnh quyết”.

Cụ Huỳnh trút hơi thở cuối cùng vào ngày 21-4-1947, tại Quảng Ngãi, thọ 71 tuổi.

Được tin đó, Hồ Chủ tịch đau đớn làm bài thơ bằng chữ Hán, rồi Người tự dịch ra quốc ngữ:

“Than ôi!

Bể Đà Nẵng triều thảm

Đèo Hải Vân mây sầu

Tháng tư tin buồn đến

Huỳnh Bộ trưởng đi đâu?

Trông vào Bộ Nội vụ

Tài đức tiếc thương nhau

Đồng bào ba chục triệu

Đau đớn lệ rơi châu”.

Trong Thư gửi đồng bào cả nước báo tin Lễ quốc tang Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bác Hồ viết: “…Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao… Cụ Huỳnh là một người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không nản chí, oai vũ không sờn gan. Cả đời Cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập…”

Theo nguyện vọng của người quá cố, tỉnh Quảng Ngãi đã mai táng Cụ Huỳnh trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng của Quảng Ngãi - “Thiên Ấn niên hà” (Ấn trời đóng xuống sông).

Đền thờ Cụ Huỳnh ở xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước (Quảng Nam) được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử.

Ngày 21-4-1948, nhân ngày giỗ đầu của Cụ Huỳnh, Bác Hồ có điện thăm hỏi đến gia đình: “…Nhân ngày giỗ đầu cố Bộ trưởng, thay mặt Chính phủ, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ và xin gửi gia đình Cụ lời chào thân ái và quyết thắng…”.

Ngày 19-2-2013, Nhà nước ta đã truy tặng Huân chương Sao Vàng để ghi nhận công lao của Cụ đối với đất nước.

Nguyễn Xuyến

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy