Thứ bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024
15:40 (GMT +7)

Những giờ phút cuối cùng của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa và bài diễn văn bị bỏ dở

VNTN - Ngày 30-4-1975 đã đi vào lịch sử Việt Nam với dấu ấn là cột mốc vĩ đại đánh dấu nước Việt Nam “non sông liền một dải”. Các sự kiện khởi đầu và kết thúc bao giờ cũng nhận được sự quan tâm, và ngày 30-4-1975 cũng không nằm ngoài mối quan tâm đó. Trong Hồ sơ số 9759, phông PTTg (hiện lưu trữ tại Trung tâm LTQG II - TP HCM) lưu trữ toàn văn bài diễn văn của Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu của Chính quyền Sài Gòn. Đây là bài diễn văn dự định sẽ đọc trong buổi ra mắt trình diện Chính quyền của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vào trưa ngày 30-4-1975. Tuy nhiên, bài diễn văn ấy đã chưa được đọc, bởi trưa hôm đó toàn bộ các thành viên Chính phủ đã bị Quân Giải phóng bắt sau khi đầu hàng vô điều kiện.

1. Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống

Sau khi mất Tây Nguyên và thất thủ Phước Long, Chính quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Trước tình hình ấy, đầu tháng 4 năm 1975, nhóm tham mưu của ông Dương Văn Minh đã thống nhất và công bố quyết định để thay thế Nguyễn Văn Thiệu với mục đích thành lập “nội các hòa bình” để thương lượng với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam nhằm chấm dứt chiến tranh. Ngày 21-4-1975, phòng tuyến Xuân Lộc thất thủ và không nhận được lời hứa viện trợ từ phía Mỹ, Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình tuyên bố từ chức và theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, người thay thế là Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Trần Văn Hương nhậm chức và đã tuyên bố sẽ tử thủ “dù phải hy sinh đến nắm xương tàn”. Nhưng, Trần Văn Hương cũng chỉ trụ được mấy ngày để rồi tối 26-4-1975, lưỡng viện Quốc hội Sài Gòn đã bầu Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.

 

Người dân tổ chức diễu hành trong ngày thống nhất.

Trong Hồi ký không tên, nhà báo Lý Quý Chung (Chánh Trinh) - Tổng trưởng Thông tin chính quyền Dương Văn Minh cho biết: Ngày 27-4-1975, tại Dinh Hoa Lan “Ông Minh triệu tập những người thân cận, cùng các nhóm Phật giáo, Công giáo từng tán đồng lập trường hòa bình với ông dự phiên họp để thành lập chính phủ. Tại cuộc họp này, ông Dương Văn Minh đã chọn luật sư Nguyễn Văn Huyền, từng là Chủ tịch Thượng viện thời Ngô Đình Diệm làm Phó Tổng thống. Theo Lý Quý Chung thì cụ Nguyễn Văn Huyền “được cả hai phía đối lập và thân chính kính trọng… về nhân cách, luật sư Huyền hơn hẳn các nhân sĩ nổi tiếng khác có mặt trên chính trường Sài Gòn lúc bấy giờ”. Người được ông Dương Văn Minh chọn làm Thủ tướng là Giáo sư luật học Vũ Văn Mẫu. Giáo sư Vũ Văn Mẫu nguyên là Ngoại trưởng dưới thời Ngô Đình Diệm. Năm 1963, khi chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã cạo trọc đầu và sau đó xin nghỉ phép dài hạn đi hành hương Ấn Độ. Từ Ấn Độ, Giáo sư đã gửi tuyên bố về nước từ chức ngoại trưởng để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Vào hồi 16 giờ 45 ngày 28-4-1975, tại Dinh Độc Lập đã diễn ra buổi lễ bàn giao giữa quyền Tổng thống Trần Văn Hương và tân Tổng thống Dương Văn Minh. Ngày 29-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh, Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh (đây là một đảng viên cộng sản thuộc Ban Binh vận Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam) thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.

2. Bài diễn văn bị bỏ dở

Buổi trưa ngày 30-4-1975, Luật sư Vũ Văn Mẫu và toàn bộ nội các của ông họp và dự tính sẽ trình danh sách nội các trước Tổng thống Dương Văn Minh. Cùng với toàn bộ danh sách thành viên nội các là một bài diễn văn. Nội dung chủ yếu của bài diễn văn này là nói về vấn đề ngưng bắn, hòa hợp và hòa giải với phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, trưa hôm ấy, Quân Giải phóng đã vào Dinh Độc Lập. Đọc lại bài diễn văn này cũng là cách để tất cả cùng nhìn lại những quan điểm từ chính phủ cuối cùng của Chính quyền Sài Gòn cũng như quan điểm của giới trí thức khi ấy về hiện tình đất nước.

Bài diễn văn có đoạn:

“Những vị chấp nhận tham gia vào Chính phủ do chúng tôi điều khiển đều là những nhân vật đã từng tranh đấu cho Hòa bình, đã từng nếm trải đắng cay, đau khổ, hay đã từng là nạn nhân của chính sách hiếu chiến, tham nhũng, độc tài, độc diễn, của ông Nguyễn Văn Thiệu.

Là những người trong sạch chưa hề tham gia chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, các quý vị mà chúng tôi mời tham gia Chính phủ này, hằng thiết tha ôm ấp hoài bão làm một gạch nối để thực hiện một sự hòa giải giữa các phe lâm chiến. Như vậy, Chính phủ nay là một Chính phủ gom những phần tử hoàn toàn thuộc thành phần thứ ba, theo tinh thần Hiệp định Paris.

…Trước khi chấm dứt, trong niềm tin tưởng rằng tinh thần Hòa giải Hòa hợp Dân tộc và tình nghĩa đồng bào ruột thịt sẽ thắng, chúng tôi xin vắn tắt tóm lược chương trình của chính phủ hòa bình này trong bốn điểm thiết yếu như sau:

1. Vãn hồi hòa bình bằng đường lối hòa giải hòa hợp dân tộc trên căn bản Hiệp định Paris.

2. Tôn trọng các quyền lợi tối thượng của dân tộc và các tự do căn bản của con người.

3. Kiến thiết đất nước trong hòa giải và hòa hợp.

4. Giao hảo và hợp tác trên trường quốc tế với tất cả các quốc gia bạn, không phân biệt ý thức hệ, trên căn bản bình đẳng và tôn trọng chủ quyền quốc gia”.

Kèm theo là danh sách các thành viên Chính phủ gồm 23 người, do Giáo sư Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng ngoại giao.

Trước sức tấn công mạnh mẽ của Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, vào hồi 9h30 phút ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh đã phát đi lời tuyên bố về việc đơn phương ngừng bắn: “Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào”. Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh - Phụ tá Bộ Tổng tham mưu (lúc này gần như là Quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Sài Gòn khi Tổng Tham mưu Trưởng Vĩnh Lộc đã di tản trước đó) đã đề nghị ông Dương Văn Minh để ra “nhật lệnh” cho Quân đội Sài Gòn đơn phương ngừng bắn, án binh bất động: “…Yêu cầu tất cả quý vị tướng lãnh và quân nhân các cấp hãy triệt để thi hành lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về ngừng bắn. Các cấp chỉ huy quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy sẵn sàng liên lạc với các cấp chỉ huy quân đội của Chánh phủ Lâm thời Miền Nam Việt Nam để thực hiện ngưng bắn một cách không đổ máu”.

Sau khi phát tuyên bố, Tổng thống Dương Văn Minh, Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng. 11g 30 phút ngày 30-4-1975, Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam hạ cờ của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa và treo cờ Quân Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập. 13 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Đài Phát thanh Sài Gòn đã chính thức phát đi lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh: “Tôi - Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống Chính quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương, phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam”.

Sau phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh, Luật sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng của Chế độ Sài Gòn phát biểu trực tiếp trên Đài Phát thanh Sài Gòn: “Trong tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc, tôi, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chính quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của cách mạng”. Đại diện Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 phát biểu chấp thuận lời đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh: “Tôi, đại diện lực lượng Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được hoàn toàn giải phóng, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của tướng Dương Văn Minh - Tổng thống Chính quyền Sài Gòn”.

Cuộc chiến tranh đẫm máu 30 năm ở Việt Nam chính thức kết thúc. Đất nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất.

3. Một vài nhận xét thay cho lời kết

Một chính phủ nhằm tới “hòa giải, hòa hợp dân tộc” đã được ông Dương Văn Minh lập ra đúng vào thời khắc “ngàn cân treo sợi tóc” có thể không phải để chuẩn bị cho một giai đoạn cầm quyền mới (vì đó là ảo tưởng), nhưng rõ ràng, với ít nhiều tư tưởng yêu nước trong đó, đã giúp bớt được xương máu của người Việt ở cả hai bên chiến tuyến phải đổ thêm.

Thứ nhất, trong Hồi ký với tựa đề “Gia đình, bạn bè và đất nước”, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao, nguyên Trưởng Đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam đã đánh giá: “Mặc dù ông Dương Văn Minh chưa đáp ứng yêu cầu của ta, nhưng ông là người yêu nước”. Đây cũng là nội dung đánh giá của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Công văn số 93-CV/TW ngày 08-10-2002 do ông Phan Diễn - Thường trực Ban Bí thư thay mặt ký. Ông Dương Văn Minh có người em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty) là sĩ quan tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông qua nhiều con đường khác nhau, cách mạng đã phân công Dương Thanh Nhựt nhiều lần tiếp cận ông Dương Văn Minh để tác động.

Hai là, ông Dương Văn Minh chọn Luật sư Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm. Luật sư Nguyễn Văn Huyền là bạn của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ. Chọn một Phó Tổng thống là bạn của người đứng đầu bên phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời, điều ấy cũng có thể gợi lên nhiều suy nghĩ. Sau này, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã mời Luật sư Nguyễn Văn Huyền tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Luật sư Nguyễn Văn Huyền có một người em gái cũng là một đảng viên cộng sản). Đa số, nếu không muốn nói là tất cả thành phần Chính phủ Vũ Văn Mẫu đều thuộc “Thành phần thứ 3” - những người chống chính sách hiếu chiến của Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hương, Trần Thiện Khiêm, ủng hộ chấm dứt chiến tranh, hòa hợp, hòa giải dân tộc, nhưng họ cũng không phải là cộng sản.

 

Tướng Dương Văn Minh khi đương chức với bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ảnh tư liệu.

Ba là, Luật sư Vũ Văn Mẫu, người được chọn làm Thủ tướng có những người em cũng là người cộng sản như dược sĩ Vũ Thị Sửu, giáo sư tiến sĩ Vũ Như Canh. Luật sư là người quyết liệt chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong “Hồi ký Không tên”, Lý Quý Chung cho biết: Vũ Văn Mẫu là một con người có uy tín lớn trong xã hội, “uy tín lớn về nhiều mặt, từ nghề nghiệp riêng trong giới luật sư cho đến các hoạt động chính trị qua cả hai thời kỳ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Thái độ chân thành và có thể gọi là dũng cảm của ông trong những ngày cuối cùng và cả khi lực lượng giải phóng vào Dinh Độc Lập khiến cho tôi nhớ mãi và kính phục”.

Bốn là, ngoài các nhân vật nêu trên, nhìn vào thành phần nội các Vũ Văn Mẫu, chúng ta thấy có rất nhiều nhân vật là những người thuộc thành phần thứ 3 và không dính líu đến chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Tổng trưởng Quốc phòng được chọn là một giáo sư đại học với mong muốn đây là chính phủ hoàn toàn dân sự. Sau này, nhiều người của Chính phủ Vũ Văn Mẫu đã tham gia vào chế độ mới. Chẳng hạn Bác sĩ Lê Khắc Quyến - Quốc vụ khanh kiêm Tổng trưởng Y tế là một trí thức nổi tiếng. Hiện nay tên ông đã được đặt cho một con đường ở thành phố Huế. Tổng trưởng Thông tin, Dân biểu Lý Quý Chung sau này trở thành một nhà báo nổi tiếng trong chính quyền mới. Tổng trưởng Tư pháp - Thẩm phán Trần Thúc Linh sau này tham gia hoạt động trong Hội Trí thức yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh v.v..

Năm là, bài diễn văn cuối cùng của Chính phủ Vũ Văn Mẫu thể hiện rõ quan điểm và mong đợi của giới trí thức miền Nam khi tham gia Chính phủ này. Đó là muốn tiến đến giải pháp hòa giải và hòa hợp dân tộc; khẳng định thành phần chính phủ gồm những vị đã từng là nạn nhân của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và chưa hề tham gia hoạt động trong chính quyền đó.

Trưa ngày 30-4-1975, lực lượng cách mạng của ta đã buộc Quân đội và Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải đầu hàng; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Bài diễn văn dự định đọc trong buổi “Ra mắt Chính quyền Việt Nam Cộng hòa” ngày 30-4-1975 với một dàn nội các 23 người đã vĩnh viễn chỉ còn nằm trong kho tư liệu chiến tranh. Xem lại bài diễn văn cuối cùng của Chế độ Sài Gòn cũng giúp chúng ta hiểu thêm về thời khắc lịch sử đặc biệt của đất nước.

Vũ Trung Kiên

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Tâm sự Nghề giáo

Xem tin nổi bật 2 ngày trước