Bệnh dịch và số phận của con người xã hội
Bệnh dịch không chỉ thử thách sức đề kháng của con người sinh học, chúng là chất thử nghiệt ngã đối với con người xã hội, kinh tế và chính trị. Sau hàng triệu năm tiến hóa sinh học và kỹ thuật tổ chức xã hội, có lẽ nỗi ám ảnh này sẽ chưa mất đi trong tương lai gần.
Mùa thu năm 1820, tham tri Lễ bộ Nguyễn Du đang chuẩn bị cuộc hành trình sang Bắc Kinh. Vị quan chức được nhà vua mới lên ngôi Minh Mệnh cử đi sứ trong một nhiệm vụ đặc biệt: báo tang vua cha Gia Long và xin cầu phong. Không may là một trận dịch tả đã tràn qua Việt Nam vào thời điểm đó, và thi hào cùng với hàng trăm nghìn người Việt khác đã thiệt mạng. Trận dịch này bắt đầu từ năm 1816, quét qua Ấn Độ từ 1820 và bắt đầu vào Việt Nam trong cùng năm, lan từ Hà Tiên lên Bắc thành. Sử nhà Nguyễn thống kê: số hộ khẩu chết tất cả là 206.835 người, không kể số nam phụ lão ấu ở ngoài hộ tịch. Nhà nước bỏ ra 730.000 quan tiền để cứu chẩn, mai táng.
Với quy mô dân số Việt Nam dưới 10 triệu người vào đầu thế kỷ XIX, hơn 4% dân số đã bị thiệt mạng. Nếu một trận dịch với tỉ lệ tương tự vào năm 2020, 4 triệu người Việt Nam sẽ bị đe dọa tính mạng.
Bức họa Khải hoàn của thần chết (Pieter Bruegel the Elder, c. 1562.)
Dịch bệnh không chỉ là vấn đề y tế, đó là số phận của con người, của xã hội loài người, của thể chế chính trị, và của các nền văn minh. Sự chết chóc do chúng mang lại không chỉ phản ánh các hệ quả sinh học lên giống loài mà còn hưng vong triều đại, thăng trầm xã hội và thịnh suy đế chế và sự cân bằng chính trị - quân sự toàn cầu. Cung nỏ, vó ngựa, thuốc súng có sức mạnh kiến tạo hay hủy diệt xã hội, và vi trùng cũng thế. Vào đầu thế kỷ XVI, những kẻ chinh phục Tây Ban Nha mang theo gươm, súng và ngựa cập bến một châu lục vừa được khám phá: châu Mỹ, với mục tiêu chinh phục đế chế Inca vĩ đại. Thực tế, bệnh đậu mùa mà họ mang theo mới chính là vũ khí chết chóc nhất, khiến cho hơn một nửa dân bản địa mất mạng. Trong số này có nhà vua Huayna Cupac. Cái chết của ông đẩy người Inca vào nội chiến, hỗn loạn, và đưa tới việc Francisco Pizarro với đạo quân 168 người có thể đánh chiếm một vùng lãnh thổ bằng cả Italia và Tây Ban Nha cộng lại.
Sự “mong manh” của các cấu trúc chính trị-xã hội
Tại sao bệnh dịch lại là vấn đề ám ảnh loài người?
Việc sống tập trung tại các đồng bằng và thành thị là một điểm yếu “sinh học” của loài người. Dân số đủ đông để dịch bệnh tồn tại liên tục và có thể tạo ra nguy cơ bùng nổ dịch bất cứ lúc nào. Lấy đậu mùa làm ví dụ. Dù khảo cổ học tìm thấy dấu vết của chúng từ cách nay 350.000 năm tuy nhiên bằng chứng về sự lan rộng của chúng chỉ thực sự gia tăng từ khoảng 10.000 năm TCN. Không phải ngẫu nhiên mà đó là thời điểm xuất hiện nông nghiệp và con người bắt đầu xác lập các khu định cư ở vùng Trung Đông. Các xã hội có tập hợp khoảng 100.000 đến 200.000 dân là đủ để cho các mầm bệnh duy trì thường xuyên. Nguy cơ đó rõ ràng là lớn gấp nhiều lần ở các thành phố hơn hai mươi triệu dân như Mexico City hay Thượng Hải. Làm nông nghiệp và thuần hóa động vật là một cầu nối khác giữa con người với các virus. Với việc thuần hóa động vật, chúng ta không chỉ mời bò, gà, lợn, cừu… vào nhà mà còn cả một thế giới các đạo quân sinh học khác, từ chuột tới các loài vi khuẩn gắn liền với các động vật này. Điều nghiêm trọng hơn là các động vật này là cầu nối nhiều loài vi rút có mặt ở nhiều giống loài tự nhiên đối với con người.
Lấy chủng virus Corona làm ví dụ.
Báo cáo gần đây của WHO cho thấy có nhiều bằng chứng virus corona chủng mới có mối liên hệ với các loại virus corona tương tự được biết tới ở dơi, cụ thể là ở phân loài dơi Rhinolophus có địa bàn phân bố ở miền Nam Trung Quốc, và châu Á, châu Phi. Riêng tại các hang dơi ở Trung Quốc đã tìm thấy 500 loại virus corona khác nhau. Nghiên cứu huyết thanh học được tiến hành với người dân nông thôn sống gần các hang động có dơi sinh sống cho thấy tỉ lệ huyết thanh dương tính với virus corona ở phân loài dơi này là 2,9%. Điều này cho thấy sự tiếp xúc giữa con người với dơi có thể phổ biến mặc dù mắt xích trung gian của sự lan truyền virus này vẫn chưa được nhận dạng.
Các bức tường thành, làng xóm, các thành phố và đô thị là không gian lí tưởng cho bệnh dịch. Dân cư đông đúc và tình trạng kém vệ sinh là môi trường để các loài động vật cư trú bên cạnh con người, trong khi thương mại, chiến tranh, du hành, hành hương, truyền giáo, và các quá trình khác của toàn cầu hóa thúc đẩy sự lan truyền của bệnh dịch với quy mô chưa từng có.
“Cái chết đen” là một trong các ví dụ tiêu biểu về cách thức một bệnh dịch trong vòng bốn năm đã thay đổi diện mạo của thế giới và nền văn minh nhân loại.
Cái chết đen ám chỉ tới trận dịch hạch lan tràn trên lục địa Á-Âu giữa thế kỷ XIV. Nổi tiếng trên khắp châu Âu với tên gọi Cái chết đen, dịch bệnh này được cho là gây ra bởi vi khuẩn Yersinia pestis và lây lan thông qua loài bọ chét sống trên chuột đen. Quy mô của bệnh dịch này cũng tiến hóa theo bước đi của lịch sử nhân loại, gắn liền với ba trận dịch lớn có quy mô toàn cầu:
1. Trận dịch thời Justinian (541).
2. Cái chết đen (1348).
3. Trận dịch thứ ba (1855).
Chúng là những ví dụ cho thấy sự “mong manh” của các cấu trúc chính trị - xã hội của con người, đồng thời phản ánh hệ quả của quá trình toàn cầu hóa, chiến tranh, thương mại và mở rộng đế chế đã tạo ra các mạng lưới mà theo đó không chỉ có tơ lụa mà chuột và vi khuẩn cũng được du hành toàn cầu.
Gắn liền với chúng là vận mệnh của hàng trăm triệu người, hưng vong của nhiều triều đại, xã hội và đế chế. Đó là vào năm 1344, Janibeg-Hãn của Kim Trướng Hãn Quốc (một nước Hồi giáo do người Mông Cổ thiết lập ở Trung Á) tiến hành cuộc tấn công vào bán đảo Crimea và bao vây thành phố Caffa (ngày nay là Feodosia). Thành phố này là một trung tâm thương mại chiến lược trên biển Đen và đang nằm dưới sự kiểm soát của các thương nhân Genoa. Khi chiến thắng đang ở tầm tay, đạo quân Mông Cổ bất ngờ bị dịch hạch vào tháng 10/1346. Quân lính bị chết chỉ sau 7-10 ngày nhiễm bệnh.
Trong sự tuyệt vọng, Janibeg cho lính thu thập xác người bị dịch hạch và ném vào trong thành. Đây là câu chuyện đầu tiên về việc con người sử dụng “vũ khí sinh học” trong chiến tranh. Vào tháng 10/1347, Janibeg chiếm được thành phố và những thương nhân Genoa chạy về Italia. Bệnh dịch nhanh chóng theo chân họ về đảo Sicily và sau đó là Genoa. Tới mùa hè năm 1348, Marseilles và Paris trở thành các nạn nhân tiếp theo. Năm sau đó, chúng xuất hiện ở vùng thung lũng sông Rhine và tràn vào vùng đất ngày nay là lãnh thổ nước Đức. Ở phía Tây, dịch bệnh cũng vượt qua eo biển tới London, trong khi một năm sau đó, chúng chinh phục Denmark và bán đảo Scandinavia (nơi 60% dân Norway được cho là bỏ mạng).
Vào lúc đỉnh điểm của các trận dịch này, có 800 người chết ở Paris một ngày. Con số này ở Pisa là 500 và 600 ở Vienna. Một nửa dân số của thành phố Siena đã chết trong vòng một năm. Tương tự Floren mất 50.000 dân trên tổng số 100.000 người. Người chép sử của thành phố Siena là Agnolo di Tura đã than khóc: “Không từ nào có thể tả hết tính chất khủng khiếp của những sự kiện này… Chính tay tôi đã phải chôn cất năm đứa con trai của mình”.
Sử gia người anh Alistair Horne ước tính trong vòng bốn năm từ khi Janibeg ném các xác chết vào thành Caffa, một phần ba dân số thế giới từ Iceland tới Ấn Độ đã bị thiệt mạng. Những thống kê khác chỉ ra con số khoảng 50% dân số thế giới đã bị chết, và con số này có thể vào khoảng 75 - 100 triệu người.
Trận dịch hạch lớn cuối cùng là vào năm 1855, bắt đầu ở Trung Quốc, và đã giết chết 10 triệu người chỉ riêng ở Ấn Độ. Chỉ đến năm 1895 bác sĩ Alexandre Yersin mới tìm ra nguyên nhân của dịch này khi nghiên cứu sự bùng phát ở Hong Kong.
Câu chuyện về các trận dịch, vì thế, là câu chuyện về số phận, trình độ kỹ thuật, và khả năng tổ chức của các xã hội người. Nó giúp chúng ta hiểu thêm về tình hình sức khỏe, vệ sinh, sức đề kháng của xã hội, mô hình thể chế hay khả năng thích ứng của các hệ thống chính trị.
Hãy lấy cuộc viễn chinh của Napoleon vào nước Nga làm ví dụ.
Năm 2001, các công nhân xây dựng tìm thấy một hố chôn tập thể khoảng 2.000 - 3.000 người tại Vilnus, Lithuania. Từ các bộ đồng phục và huy hiệu, đồng phục… người ta tin rằng đạo quân này chính là những người lính Pháp được chôn cất vội vã trên đường tháo chạy khỏi nước Nga vào năm 1812. Điều đáng chú ý là các nhà khoa học tìm ra nguyên nhân cái chết của 1/3 những người lính này là do sốt phát ban. Đây là một chỉ dấu quan trọng góp thêm những cánh cổng vào quá khứ. Trước giờ, các sử gia vẫn chủ yếu hướng tới thời tiết mùa đông nước Nga, ý chí của người Nga, sự thiếu chuẩn bị của người Pháp… Nhưng rõ ràng là vị hoàng đế vĩ đại Napoleon không chỉ bị đánh gục bởi các bộ óc thiên tài của người Nga mà còn bởi chấy rận (các vật chủ truyền bệnh).
Xét rộng ra, "Cái chết đen" đã tham gia vào việc thay đổi nhiều trang sử của nhân loại.
Dịch bệnh này đã làm thay đổi con người sinh học. Nghiên cứu của Sharon DeWitte (University of South Carolina) khảo sát phụ nữ London trong hai giai đoạn: năm 1000 1200 và 1350 1540 và gợi ý rằng "Cái chết đen" gây ra tác động làm giảm chiều cao của phụ nữ.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...