Chủ nhật, ngày 20 tháng 04 năm 2025
07:48 (GMT +7)

Thử ăn rêu đá miệt rừng

Những đợt mưa đến rồi đi đường đột như gã khách không mời và tiết trời đỡ oi ả hơn. Trên bức vách, cục lịch đã vơi quá nửa để thấy rằng một năm nữa đang trôi về cuối. Cứ vậy độ một tháng nữa là mùa thu rồi. Nhìn ra rặng núi trước nhà, chóp đỉnh đang dần mờ mịt khói sương, dòng suối bên chân núi dần xanh trong trở lại sau mùa hè bị khuấy động bởi con người và cả vật nuôi trong suốt những ngày hè. Chẳng là mùa nóng người và vật đều ưa sông nước. Sông suối vì thế đục ngầu trong cơn quằn quại.

Mùa thu sắp sửa đến, tôi lại muốn khoác ba lô lên và tha thẩn trên những nẻo đường núi ở miền tây Nghệ An. Kỳ thực là tôi đi tìm lại hương vị đã ăn sâu trong ký ức ấu thơ, muốn ăn lại miếng rêu đá hấp chín trong chiếc chõ gỗ, thử lại những thức gia vị “mác khén” mà người miền xuôi gọi là hạt tiêu rừng, ớt, hành nướng than, giã nát, sả tươi và mắm muối. Mấy thứ đó nấu cùng rêu đá hái từ lòng suối trong vắt sẽ thành một món ăn ngon, vừa lạ miệng.

Với tôi thì rêu đá không lạ lẫm gì vì đã quen với mùi vị của món ăn từ ngày tập cầm thìa, cầm đũa. Tôi men dọc sông Lam trên Quốc lộ 7, quãng qua huyện Con Cuông ngược lên phía tây đã là xứ của người Thái. Quãng sông Lam từ Con Cuông ngược lên mạn Tương Dương, cư dân bản địa quen gọi là Nặm Pao, nước mát trong, lại chảy xiết hơn mạn đồng bằng. Lòng sông hẹp chảy trên nền đá núi là môi trường cho loài rêu đá sinh trưởng. Cách sông không xa là những bản người Thái, vài chục năm về trước vẫn sống nhờ nương rẫy, nương tựa vào thiên nhiên nên nhiều người biết rõ mùa thu về là lúc rêu mọc. Từ tấm bé, tôi đã biết đến điều này.

Phụ nữ Thái ở Tương Dương – Nghệ An lội suối hái rêu đá
Phụ nữ Thái ở Tương Dương – Nghệ An lội suối hái rêu đá

Muốn ăn rêu thì không nên sợ nước. Quả là trong cộng đồng người Thái có câu nói như thế. Tiếng Thái câu này cũng như nghĩa đen câu tục ngữ "có gan ăn muống có gan lội hồ". Nhưng rêu không mọc ở đáy hồ mà là lòng suối, nước xiết một chút thì rêu càng xanh và ngon mà cũng chóng tàn.  Để có một món rêu đá, những phụ nữ ở bản ra sông, suối từ buồi sáng. Nhà gần suối thì ra hái rêu trước lúc trời tối vài giờ đồng hồ. Ngập lặn trong làn nước đến rét run, các chị, các bà mới kiếm được mớ rêu đủ làm bữa tối rồi vội đãi sạch cát, rửa cho hết bụi bám rồi đem về băm nhỏ ra. Xong, lại đem trở lại suối đãi một lần nữa mới hết sạn rồi đem về giã trong chiếc cối lớn vốn thường dùng giã gạo. Riêng mấy phần việc này đã vã mồ hôi hột, tay chân luôn vận động để thúc chày. Vậy mà mới xong khâu sơ chế thì gà đã vào chuồng, sớm hơn thì trâu bò từ các bãi chăn thả đang trên đường về bản. Lúc này tai ta có thể nghe thấy tiếng băm lốc cốc trên thớt gỗ vọng đến từ căn nhà nào đó đang chế biến món rêu hấp. Sau băm là giã cho nát, mới đem trộn với ớt tỏi, hạt “mác khén” để gia vị ngấm đều. Lúc này mớ rêu sẫm màu, rắc thêm gạo tấm trộn lên một lần nữa và đem hấp.

Có người cứ thế bỏ vào nồi hoặc chiếc chõ bằng gỗ mà hấp chín như khi đồ xôi vậy. Cầu kỳ hơn thì gói bằng lá dong, lá chuối. Người ta làm thành từng gói lớn hơn nắm tay một chút rồi xếp vào nồi, vào chõ mà đun. Ban đầu cần to lửa một chút, sau chừng nửa giờ, khi làn hơi trắng thoát ra từ nồi hấp và mùi rêu chín lan trong không khí thì rút bớt lửa. Giờ chỉ việc canh cho lửa cháy đều và chờ rêu và gạo tấm chín ngẫu. Đó là lúc ngồi vào mâm cơm gia đình. Món rêu hấp vậy là xong xuôi rồi đấy. Gói đầu tiên được mở ra. Màu xanh đặc trưng của rêu vẫn được giữ nguyên coi như là đạt chuẩn. Mùi thơm bắt đầu nức mũi. Mùi thơm rêu đá hấp sẽ khiến ai đó nghĩ đến món giò lụa xứ bắc. Có thể là hương cốm nơi ngoại thành Hà Nội cũng không chừng. Mùi thơm lạ lùng đến nỗi bạn những muốn thử ngay, đôi khi sẽ lại lưỡng lự vì chưa quen ăn.

Quả thực rêu đá hấp có thể gợi nên cảm giác từa tựa món giò lụa hay cồm Làng Vòng. Nhưng khi ăn miếng đầu tiên bạn mới nhận ra rõ rệt nhất vị rêu đá. Cay nồng của ớt, sả và “mác khén” sẽ chẳng thể lừa mị vị giác của bạn bởi cơ bản chẳng thể át đi vị ngọt đặc trưng của rêu đá khi đã hấp chín. Lá dong giữ cho vị ngọt đó cũng như màu xanh rêu gần như nguyên vẹn. Sau miếng đầu tiên, ta có thể muốn ăn thêm nữa. Bữa cơm có món rêu đá cũng là điều đặc biệt, dù không là sơn hào hải vị gì. Bởi chẳng phải lúc nào bạn cũng có thể gặp được. Thường thì mùa rêu bắt đầu khi chớm thu, qua tết, sáng xuân thì rêu tàn.

Rêu đã tươi ngon có màu xanh đặc trưng bắt mắt
Rêu đã tươi ngon có màu xanh đặc trưng bắt mắt

Món rêu đá thân thuộc đến nỗi có hẳn một sự tích về nó. Cộng đồng người Thái ở huyện Tương Dương có một câu chuyện cổ tích liên quan đến món rêu đá như thế này: Trong một cuộc họp các tù trưởng, khi ngồi chung mâm cơm một vị nói với người bạn lâu năm không gặp rằng nhà mình có cô con gái muốn gả về làm dâu nhà ông bạn thân. Vừa may vị tù trưởng kia cũng có con trai đến tuổi kén vợ. Hai bên giao ước kết mối thông gia. Người tù trưởng trở về nhà cho con trai băng rừng vượt suối sang bản bên ở rể, bởi người Thái thường ở rể 3 năm mới được đón vợ về nhà.

Chàng trai về ở rể đã qua năm thứ năm nhưng vẫn không nhìn thấy con gái chủ nhà đâu nên thấy nản lòng bèn xin về. Bố vợ dụ dỗ không xong liền cho một chiếc ống tre nút kín bỏ vào gùi cho về và không quên dặn rằng: "Dù cái gùi có nặng đến mấy cũng cố về cho tới nhà, vào trong buồng mới được mở cái ống nhé."

Chàng mang gùi trên lưng và cảm nhận thấy cái ống tre trong gùi ngày càng trở nên nặng nề. Bụng bảo dạ: "Chắc tại ta mệt nên thấy nặng". Nhưng khi mặt trời đứng bóng chàng nhận thấy trong chiếc gùi không còn là chiếc ống tre mà là một trái bí đao. Nhớ lời bố vợ dặn chàng vẫn không dừng bước. Mặt trời gác núi, chàng đã nhìn thấy bản làng thân thuộc của mình ở ngọn núi phía bên kia, lúc này chàng cảm tưởng như mình đang gùi theo một người trên lưng chứ không còn là cái ống tre. Chàng lấy làm lạ không hiểu vì sao khúc tre ngắn mà nặng nề đến vậy. Chàng đặt gùi xuống và mở mở miếng giẻ nút ống tre. Một nàng con gái bước ra và vụt lớn như người thường. Vẻ đẹp của cô gái khiến chàng mê mẩn. Khi đã định thần, chàng chặt cây sui tước vỏ đan võng cho vợ ngồi chờ còn mình thì trở về gọi người nhà sửa soạn đánh chiêng, trống đi rước dâu. 

Trong khu rừng có con đười ươi chuyên ăn thịt người ra suối uống nước nhìn thấy bóng nàng con gái in dưới làn nước liền lặn xuống mò tìm. Con đười ươi ngụp lặn mãi vẫn không tìm được khiến cô gái cười nắc nẻ. Nghe thấy tiếng cười đười ươi liền trèo lên cây nuốt chửng cô gái vào bụng và biến thành một người con gái khác y chang ngồi vào võng. 

Chàng trai dẫn đoàn đi đón vợ và biết chuyện nhưng vẫn lặng thinh đón đười ươi về nhà mổ lợn, mổ trâu ăn mừng như bình thường và nghĩ kế cứu vợ.  Sau 7 ngày ở miết trong nhà theo tục lệ kiêng cữ của người Thái, "cô vợ" cắp chậu xuống suối giặt áo quần. Chàng trai cầm gươm và gậy thần cho vào ống nước vo gạo đi theo xuống suối rồi chém chết con đười ươi cứu vợ ra. Chàng trai dùng gậy thần hóa phép cho người vợ sống lại. Hai người gặp lại nhau khôn xiết vui mừng. Chàng trai thương tình liền cầu thần linh cho đầu và xương đười ươi biến thành đá cuội, thịt biến thành nấm rừng, máu chảy xuống thành cá suối. Tóc của đưới ươi biến thành loài rêu đá. Sau này người vợ chết đi chàng trai ra bờ suối than khóc rồi chết hóa thành đá suối. Thần linh thương tình liền biến tóc của đôi vợ chồng chung thủy thanh loài rêu đá. 

Người Thái ở Thạch Giám, Tương Dương cư ngụ trong những làng bản đầu nguồn sông Lam tin rằng, cặp vợ chồng biết thương yêu nhau ấy đã từ giã cõi đời vào một ngày đầu thu để làm nên mùa rêu đá. 

Thường thì một gia đình 4 - 6 nhân khẩu sẽ không ăn hết được một nồi đầy những gói rêu. Bà con đem chia cho hàng xóm cùng hưởng. Đó cũng là dịp tỏ bày mối thâm giao hòa hảo trong cộng đồng. Trong bữa cơm gia đình có món rêu đá thường vui nhộn hơn ngày thường. Kí ức ấu thơ của tôi vẫn còn lưu giữ rõ nét những bữa tối có món rêu đá. Cha dường như đỡ mệt hơn sau những chuyến lên rừng trở về. Trong mắt mẹ vẫn lấp lánh niềm vui mặc dầu đề có được bữa rêu đá, mẹ phải mất 2 - 3 giờ đồng hồ từ khi ở rãy trở về nhà đến khi rêu chín cũng phải đến 8 - 9 giờ đêm. Món rêu đá ăn cùng với nếp nương là một thứ phong vị tuổi ấu thơ của tôi. Với nhiều người vùng cao giờ chỉ còn trong nỗi nhớ. 

Món rêu trong mâm cơm gia đình người Thái ở Tương Dương – Nghệ An
Món rêu trong mâm cơm gia đình người Thái ở Tương Dương – Nghệ An

Ngày trước khi đầu nguồn sông Lam chưa bị ngăn dòng làm thủy điện, chưa có tiếng nổ phình phịch của chiếc máy tìm vàng đào bới lòng sông thì việc hái rêu đá vẫn còn dễ dàng. Sông giờ ít nước hẳn đi, nhiều quãng người ta có thể dễ dàng lội từ bên này sang bên kia sông. Nước sông bẩn lại không còn chảy xiết như xưa nên rêu đá không sống nổi nữa. Và dần dà món ngon này dần vắng bóng trong thực đơn của gia đình vào mùa lạnh, người ta cũng sẽ quên mất món rêu.

Vào một buổi chiều tà mùa đông năm trước, tôi tình cờ bắt gặp trong thùng hàng của chị bán cá suối có cái gói túi bóng màu xanh. Cầm lên thì nhận ra đó là rêu đá. Chị cho biết chồng chị đã vào tận sông Giăng cách nhà gần 40km để mò rêu về. Chỉ thử đem bán lại cho bà con trong bản và thấy người ta rất ưa thích. Vậy là món rêu đá giờ đã thành hàng hóa. Nhưng điều quan trọng là thứ phong vị ấu thơ của tôi vẫn chưa mất đi. Ít nhất là nơi đầu nguồn sông Giăng (xã Môn Sơn - Con Cuông) vẫn còn rêu đá. Và du khách phương xa, những ai còn lạ lẫm với món ăn này có thể tìm về thưởng thức lúc sang thu khi rêu đá vào mùa . 

Hiện nay, ở một số điểm du lịch cộng đồng hay những làng bản ở các huyện Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong nơi vẫn còn những dòng suối lớn quanh năm trong xanh là vẫn còn rêu đá. Trong những chuyến đi gần đây đến các xã Tam Quang và Tam Hợp (huyện Tương Dương) tôi vẫn chứng kiến cảnh người dân ra sông, suối hái rêu vào những buổi chiều muộn. Xa Tam Hợp có con suối Chà Lạp bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào chảy qua những Phá Lõm, Văng Môn, Xốp Nặm vốn trong mát quanh năm nên hầu như mùa nào người ta cũng có thể tìm thấy rêu đá. Nhưng rêu ở đáy suối thường ngắn và không được ngon bằng rêu trên thượng nguồn sông Lam. Thế nhưng với tôi được thưởng thức một bữa tối với món ăn đặc biệt này vẫn là một kỷ niệm vui. Còn nhớ mùa đông năm trước khi đến bản Xốp Nặm, tôi được vợ chồng người bạn mời ở lại ăn tối. Biết nhà có khách, từ buổi chiều, chị vợ anh bạn và cô cháu gái đã suối Chà Lạp hái rêu. Tôi như gặp lại một quãng đời ấu thơ khi theo chân những phụ nữ ra suối, đằm mình trong làn nước mát cùng ngụp lặn, chạm tay và nền đá với những đám rêu trơn tuột. Cách chế biến rêu đá nơi đây chẳng khác nhiều so với quê tôi ngày nào. Không khí của bữa tối hôm đó cũng thật ấm cúng. Tôi như gặp lại cái không gian xa vắng tưởng chừng đã bị lãng quên.

Thế đấy. Rêu đá vùng cao, một món ăn đơn sơ mà chất chứa bao chuyện đời. May mắn thay, đâu đó, trên mảnh đất miền tây Nghệ An rộng lớn vẫn còn lưu giữ cho tôi những miền ký ức. Bạn cứ về nơi rẻo cao vào độ thu sang mà thử một lần món ăn tờ rêu đá. Biết đâu bạn cũng sẽ thích như tôi.

Hữu Vi

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy