
Góc biếm họa số 4 (2025)

1. Văn học dân tộc thiểu số chính là bức tranh đa sắc màu về tâm hồn, cuộc sống của các dân tộc anh em trong 53 dân tộc thiểu số của nước ta. Các tác giả dân tộc thiểu số là người đại diện tiêu biểu nhất đồng thời có trách nhiệm phản ánh chân thực, sâu sắc nhất tâm hồn và văn hóa của cộng đồng dân tộc mình. Chính họ là người thêu vẽ và lưu giữ những mảnh hồn làng, bản, buôn, sóc bằng thế giới tâm hồn của dân tộc. Trong tấm hoa văn của văn học Việt Nam hiện đại không thể thiếu đi những mảng màu rực rỡ, đa sắc của những tấm thổ cẩm được tạo nên từ văn học dân tộc thiểu số. Chính vì vậy nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, nhất là những tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông sẽ cho chúng ta những nhìn nhận khách quan về giá trị, vị trí, vai trò của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại trong đời sống xã hội hiện nay.
Hiện nay, văn học dân tộc thiểu số cũng bước đầu được quan tâm và lựa chọn giới thiệu trong chương trình phổ thông. Những tác phẩm văn học dân tộc thiểu số được đưa vào giảng dạy và tiếp cận trong chương trình phổ thông gồm cả văn học dân gian và văn học viết. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi tập trung nghiên cứu những tác phẩm văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn phổ thông.
2. Văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại với sự phát triển của các thể loại chính như: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình văn học đã phản ánh được thế giới tâm hồn con người miền núi thuỷ chung, chân thật, những phong tục tập quán độc đáo, đa dạng và cả thực trạng đời sống còn nhiều khó khăn của đồng bào các dân tộc. Thành tựu của văn học hiện đại dân tộc thiểu số kết tinh ở những tác giả, tác phẩm tiêu biểu đại diện cho mỗi dân tộc, cộng đồng. Chúng ta có thể kể tới các nhà văn dân tộc Tày (Y Phương, Vi Hồng, Đoàn Lư, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Ngọc Minh, Hữu Tiến, Cao Duy Sơn, Nông Thị Ngọc Hòa),…; dân tộc Giáy (Lò Ngân Sủn), dân tộc Mông (Mã A Lềnh, Hùng Đình Quý), dân tộc Pa Dí (Pờ Sảo Mìn); dân tộc Mường (Bùi Thị Tuyết Mai, Hà Thị Cẩm Anh, Kha Thị Thường), dân tộc Hà Nhì (Chu Thị Thùy Liên)... ở khu vực phía Bắc; dân tộc Thái (La Quán Miên, Lò Cao Nhum), dân tộc Chăm (Inrasara, Trà Vigia);... ở khu vực miền Trung; dân tộc Ba Na (Kim Nhất), Ê Đê (Hlinh Niê, Niê Thanh Mai)... ở khu vực miền Nam - Tây Nguyên đều có những sáng tác tiêu biểu góp vào sự phát triển phong phú của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, mảng văn học này chưa được tiếp cận một cách rộng rãi và phổ biến trong đời sống, nhất là trong chương trình giáo dục phổ thông.
Theo thống kê của chúng tôi, trước đây, trong chương trình giáo dục phổ thông chỉ có duy nhất tác phẩm Nói với con của Y Phương được đưa vào dạy chính thức ở lớp 9 và tác phẩm Dọn về làng của Nông Quốc Chấn được đưa vào đọc thêm ở lớp 12. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay đã có thay đổi rất tích cực. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới (chương trình 2018), sách Ngữ văn ở cả ba bộ sách đã đưa vào 9 tác phẩm văn học hiện đại của các nhà văn dân tộc thiểu số: Chích bông ơi! (Cao Duy Sơn), Nói với con, Mùa thu về Trùng Khánh nghe hạt dẻ hát, Con là… (Y Phương), Rồi ngày mai con đi (Lò Cao Nhum), Chiều biên giới (Lò Ngân Sủn), Nếu mai em về Chiêm Hóa (Mai Liễu), Chái bếp (Lý Hữu Lương), Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên).
Các tác phẩm này đều là những sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số ở giai đoạn từ sau 1975 đến nay và được đưa vào trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở cả hai cấp THCS và THPT. Rõ ràng, vị thế của văn học dân tộc thiểu số đã được quan tâm hơn so với trước đây. Số lượng tác phẩm văn học dân tộc thiểu số hiện đại được đưa vào nhiều hơn (9 tác phẩm, trước đây là 2 tác phẩm) và đa dạng hơn về thể loại (trước đây chỉ có thơ, hiện nay có thơ, tản văn, truyện ngắn) so với chương trình 2006.
* Những chủ đề tiêu biểu
Nhìn chung, những tác phẩm của các nhà văn dân tộc thiểu số được lựa chọn đưa vào chương trình giáo dục phổ thông đều thể hiện nét bản sắc riêng về quê hương, bản quán, phản ánh một tình yêu sâu đậm với cội nguồn văn hóa dân tộc, lối sống nhân văn, gắn với tự nhiên của người miền núi. Chúng ta có thể thấy một số chủ đề nổi bật là: tình yêu cha mẹ, gia đình, quê hương; tình yêu cội nguồn văn hoá; lối sống nhân ái.
a. Tình yêu cha mẹ, gia đình, quê hương
Ở bộ Chân trời sáng tạo, Bài 7, với chủ đề “Gia đình yêu thương”, các tác giả sách giáo khoa đã lựa chọn bài thơ Con là… của Y Phương để đưa vào phần Đọc mở rộng theo thể loại. Với thể thơ tự do, bài thơ đã thể hiện rõ tình cảm yêu thương trân trọng gia đình của người cha khi thể hiện tình yêu thương đối với con. Trong vũ trụ của tình thương, con là hạt nhân trung tâm, là nỗi buồn, niềm vui, là cuộc sống, là hạnh phúc của mẹ, cha. Bài thơ đã sử dụng những hình ảnh so sánh gần gũi, mộc mạc để thể hiện tình cảm sâu nặng mà người cha dành cho con:
Con là nỗi buồn của cha
Dù to bằng trời
Cũng sẽ được lấp đầy
Con là niềm vui của cha
Dù nhỏ bằng hạt vừng
Ăn mãi không bao giờ hết
Con là sợi dây hạnh phúc
Mảnh hơn sợi tóc
Buộc cuộc đời cha vào với mẹ.
Tình yêu thương và sự trân trọng gia đình là cội nguồn để tạo nên sự kết nối trong cuộc sống này. Đó là thông điệp giản dị nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc mà nhà thơ Tày Y Phương đã gửi gắm cho bạn đọc nhỏ tuổi.
Ở bài thơ Nói với con (sách Ngữ văn 7, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống), tình cảm cha con lại được thể hiện đầy thân thương qua những lời mong muốn chân thành của người cha dành cho con, mong con trưởng thành nhưng luôn nhớ tới cha mẹ, gia đình, quê hương, bản quán. Bởi nơi đó là cội nguồn của yêu thương, gốc rễ văn hóa tạo nên con người. Và dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cần có ý chí và tình yêu, lòng tự hào về quê hương, tự tin vào bản thân: “Sống như sông như suối/ Lên thác xuống ghềnh”; “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ được nhỏ bé/ Nghe con!”.
Cũng là lời dặn dò con, nhưng nhà thơ dân tộc Thái Lò Cao Nhum lại nhắn nhủ con khi “xuống núi” hành trang con mang theo không chỉ có tình yêu cha mẹ (Bố, mẹ cho con cán rìu, lưỡi hái) mà còn có hình ảnh: Người thầy ngồi lặng lẽ sương khuya/ … Thắp lửa hồng ấm mãi tim con”. Thầy đã mang đến tri thức cho con - hành trang đầu tiên để con bước vào đời được thắp lên từ những người thầy “cắm bản”, “Áo cổ lông không ngăn được rét rừng như chích”.
Hình ảnh “chái bếp” thân thương gắn liền với tình yêu cha mẹ, gia đình, những kí ức tuổi thơ của người con dân tộc Dao Lý Hữu Lương đã cho bạn đọc một tình cảm ấm áp:
“Cho tôi về chái bếp nhà tôi
Ngọn khói cong ngủ rồi chưa dậy
Nồi cám bao năm mẹ đun dở
Chái bếp nằm nghe nằng nặng đêm”
Không chỉ là vùng trời kí ức tuổi thơ của tác giả mà còn là dấu ấn nếp sống của người vùng cao nặng nghĩa, sâu tình. Chính vì vậy, tình cảm của tác giả khắc khoải luôn muốn trở về nguồn cội của mình (cụm từ “cho tôi về…” được lặp lại tới bốn lần trong bài thơ).
Với Mùa hoa mận, Chu Thùy Liên đã vẽ lên bức tranh núi rừng Tây Bắc đầy hương sắc với thiên nhiên thơ mộng và gam màu trắng chủ đạo của hoa mận - một đặc sản của Tây Bắc mỗi độ xuân về. Câu thơ Cành mận bung cánh muốt được lặp lại đến ba lần ở đầu ba khổ thơ tạo nên một không gian trữ tình đậm hương vị Tây Bắc. Đó là nỗi nhớ quê hương, bản quán, niềm vui khi mùa xuân về và tình yêu quê hương sâu nặng mà tác giả muốn gửi gắm qua bức tranh trữ tình của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Những yếu tố về quê hương, bản quán, đặc biệt là tình yêu tha thiết với núi rừng đã làm nên một Lò Ngân Sủn rất riêng. Thơ ông là tiếng đồng vọng của thiên nhiên miền núi, với: “núi rừng biên cương”, với “chồi non cỏ biếc”, với “đầu sông đầu suối”, với những “bậc thang mây”,… Bài thơ Chiều biên giới đã trở thành một khúc tình ca về thiên nhiên và con người nơi miền biên giới, thể hiện một tình yêu sâu nặng của tác giả với vùng đất biên cương của Tổ quốc. Trong thơ Lò Ngân Sủn, thiên nhiên vùng Tây Bắc hiện lên thật trữ tình, mê say, đầy quyến rũ:
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào đẹp hơn
Khi mùa đào hoa nở
Khi mùa sở ra cây
Lúa lượn bậc thang mây
Mùi toả ngát hương bay
(Chiều biên giới – Lò Ngân Sủn)
Bài thơ là khúc hát đầy tự hào của những người con miền biên viễn Tổ quốc đối với quê hương, xứ sở.
b. Trân trọng giá trị văn hoá truyền thống và có lối sống nhân ái
Tác phẩm Mùa thu về Trùng Khánh nghe hạt dẻ hát của Y Phương không chỉ giới thiệu về một món ăn đặc sản của Cao Bằng mà còn là một bản tình ca dành cho quê hương, thể hiện qua nét đẹp văn hóa và truyền thống của người dân miền núi. Bài thơ mở ra một góc nhìn đặc sắc về hạt dẻ - một biểu tượng của quê hương, mang đậm hương vị truyền thống. Mỗi hạt dẻ mảnh mai, gai góc như chứa đựng tâm hồn, văn hóa và tình cảm của người dân nơi đây. Qua đó, Y Phương đã khéo léo sử dụng hình ảnh hạt dẻ như một phép ẩn dụ cho sự gắn kết, bền chặt của cộng đồng, khẳng định giá trị và tầm quan trọng của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tác phẩm như một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của sự lao động miệt mài và tình cảm chân thành của con người. Y Phương đã mượn câu chuyện về hạt dẻ để thể hiện sự trân trọng và niềm tự hào đối với quê hương, gửi gắm thông điệp về tình yêu và sự kết nối giữa con người với thiên nhiên, qua đó khích lệ thế hệ trẻ phải luôn gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp đó.
Ở bộ sách Cánh Diều, các tác giả đã lựa chọn truyện ngắn Chích bông ơi! của Cao Duy Sơn để đưa vào Bài 9 (tập hai, phần Thực hành đọc hiểu). Truyện đã giáo dục tình yêu thương loài vật ở trẻ em qua câu chuyện của hai cha con Ò Khìn và Dế Vần. Một câu chuyện cảm động về việc cậu bé Ò Khìn nhờ pa bắt cho con chim chích bông non đang bị mắc ở cành gai để chơi. Điều này làm người cha nhớ lại kỉ niệm của mình. Khi đó Dế Vần mới 8 tuổi, cùng cha lên rẫy cũng bắt được con chim chích bông con và muốn giữ để nuôi. Cậu bé rất yêu quý và nâng niu chăm sóc chú chim bé nhỏ, nhưng vì phải xa mẹ nên chích bông con đã chết. Chiều về nghe tiếng gọi thảm thiết của chim mẹ, Dế Vần ân hận biết bao. Ông đã kể cho con mình câu chuyện đó và chú bé Ò Khìn dù rất yêu chim chích bông nhưng đã rút ra bài học cho mình. Cậu bé quyết định thả chích bông con về với tự nhiên với lời thì thầm: “Bay đi, bay về với mé mày đi, mé mày đang đợi đấy! Chích bông ơi!”. Tình yêu thương gắn bó, tình cha con, bối cảnh không gian miền núi và tâm hồn trẻ thơ đã khiến truyện ngắn để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc. Một câu chuyện chân thực và cảm động, gửi gắm bài học về sự thân thiện với thiên nhiên và cách thể hiện tình yêu thương loài vật của các bạn nhỏ miền núi.
Nhìn chung, việc góp mặt của những tác phẩm, tác giả văn học dân tộc thiểu số trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn phổ thông đã cho thấy sự định hướng đúng đắn của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với mảng văn học này. Đây là một tín hiệu đáng mừng so với giai đoạn trước. Văn học dân tộc thiểu số đã được mở rộng phạm vi đọc và tiếp cận. Từ đó cho thấy vị trí và vai trò của mảng văn học này trong đời sống văn học nước nhà đã được chú ý, quan tâm.
* Một số phương pháp dạy học hiệu quả
Qua việc phân tích giá trị những tác phẩm văn học dân tộc thiểu số trong sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành, chúng tôi xin đề xuất một số phương pháp dạy học hiệu quả đối với các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số hiện đại được đưa vào chương trình như sau:
Thứ nhất, mỗi tác phẩm văn học dân tộc thiểu số đều mang bản sắc của một cộng đồng dân tộc nhất định. Chính vì vậy, dấu ấn văn hoá được thể hiện rất rõ trong mỗi tác phẩm. Khi tiếp cận với những tác phẩm này chúng ta cần chú ý khai thác yếu tố văn hoá của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Do đó, cần tiếp cận tác phẩm từ góc độ văn hoá hoặc tích hợp văn hoá trong dạy học các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số ở trường phổ thông. Cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc cần được giới thiệu và quảng bá, trân trọng và phát huy, nhất là với giới trẻ hiện nay.
Thứ hai, đối với các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số, vấn đề di sản là vấn đề cốt yếu, trong mỗi tác phẩm, dường như đều chứa đựng dấu ấn của di sản văn hoá về con người, nếp sống, phong tục,... Việc sử dụng di sản để tiếp cận các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số sẽ giúp người học am hiểu và yêu thích, trân trọng và tự hào về vốn văn hoá của ông cha. Di sản văn hoá các dân tộc thiểu số như một kho tàng văn hoá độc đáo, không lặp lại của mỗi dân tộc. Khi sử dụng di sản để tiếp cận các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số giúp người học phát huy được tình yêu văn hoá truyền thống, nhất là văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
3. Bằng việc đưa vào sách Ngữ văn một số tác phẩm dân tộc thiểu số tiêu biểu, chương trình Ngữ văn đã cho thấy những đổi mới trong ngữ liệu giảng dạy và học tập. Với 9 tác phẩm tiêu biểu được lựa chọn đưa vào chương trình ở 2 cấp THCS và THPT, bạn đọc được tiếp cận với thế giới tâm hồn, những nét văn hóa riêng của một số dân tộc thiểu số. Trong thơ, truyện và tản văn của các tác giả dân tộc thiểu số, tình yêu gia đình, cha mẹ, tình yêu quê hương, sự trân trọng cội nguồn văn hóa và ý thức gìn giữ bảo lưu, phát triển vốn văn hóa dân tộc được thể hiện rõ. Rất cần có những công trình, bài viết giới thiệu hoặc định hướng tiếp cận hiệu quả đối với những tác phẩm này trong giảng dạy và nghiên cứu ở trường phổ thông.
Ngoài những tác phẩm được đưa vào chương trình Ngữ văn hiện hành như trên đã khảo sát, hiện nay trong chương trình địa phương, nhiều tác giả dân tộc thiểu số cũng được giới thiệu giảng dạy trong chủ đề Văn học thuộc nội dung giáo dục địa phương các cấp từ THCS đến THPT ở một số tỉnh miền núi phía Bắc. Điều này đã giúp văn học dân tộc thiểu số ngày càng đi sâu vào đời sống tiếp nhận hiện nay. Giáo dục cho thế hệ tương lai niềm tự hào dân tộc, thêm yêu cuộc sống qua các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc thiểu số hiện đại thông qua các trang viết mà mỗi tác giả dân tộc thiểu số đã gửi gắm.
Bài viết của chúng tôi mới bước đầu nhận xét, đánh giá về thực trạng, chủ đề phản ánh trong văn học dân tộc thiểu số Việt Nam được đưa vào chương trình THCS và THPT. Hi vọng chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến vấn đề này trong những công trình tiếp theo để làm sáng tỏ hơn vị trí và đóng góp của các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số trong chương trình phổ thông.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...