Nhà hướng Nam
Truyện ngắn. Tống Ngọc Hân
Thằng cai trẻ, mặt búng ra sữa, rất ngọng ngạnh. Nó dọa xếp giáo nếu ông không thanh toán hết số tiền công như đã thỏa thuận. Nó cũng chả dọa, mà nó làm thật. Mỗi ngày nó rút bớt vài thợ. Sáng nay, khi đem ấm nước vối kèm rổ ngô luộc nóng hổi ra, ông Dân đứng hình. Giời đất ôi, công trình bạc tỷ của ông đang gấp rút hoàn thiện mà nó điều mỗi hai thợ. Một trát, một phụ. Đã thế, cái đứa đứng trên giáo thì chân ngắn chân dài, đứa xách vữa thì tay xẻng tay điện thoại, a lô, a la rổn rảng. Ông Dân ức lắm, rút ngay điện thoại bấm gọi. Nó không nghe điện thoại ông. Cơ sự này, Tết không kịp vào nhà mới thật. Các con các cháu về thì ở vào đâu?
Hỏi vợ là bà cố nhớ xem còn ai trong họ mình có tiềm năng không thì bà bảo ai là người xưa giờ chuyên công kích tôi thì tôi biết, chứ ai có tiền hay không có tiền thì tôi chịu. Ô hay, việc đại sự mà bà cứ dửng dưng nhỉ. Tiền của các con cũng là tiền của ta chứ. Để vật liệu đây dầm mưa dãi nắng đến sang năm sao được? Được hay không kệ bố con ông, tôi không biết. Ông là trụ cột gia đình, ông phải tự lo. Mấy chục năm ông lo việc làng xã, việc nhà một tay tôi lo rồi. Giờ để tôi nghỉ ngơi chứ.
Bà Tiện vợ ông, nếu tính trên đầu số hội phụ nữ thôn Trưng Vương là gần một trăm bốn chục chị em, thì bà xếp thứ nhất trên nhiều phương diện. Đanh đá đáo để, chua ngoa nhất. Keo kiệt, hà tiện nhất. Cả làng cả tổng này nói vậy. Chứ ông đâu có bịa tạc.
Biết tính vợ thế, nên ông Dân cắn răng dằn xuống nỗi bực tức chứ không kể với bà. Nếu kể, hẳn bà sẽ chạy ra giữa nhà văn hóa mà chửi ầm lên rồi. Chả là cái thằng cai công trình nhà ông vốn là người bên thông gia nhà ông Tần. Chính ông Tần "mai mối" công trình nhà cửa này cho nó. Tất nhiên là bà Tiện chỉ chửi cho sướng miệng thôi. Chứ nào có nghĩ đến thể diện chồng con. Người đâu mà gớm ghiếc thế chứ.
Của đáng tội là làm nhà mới, ông bà không có xu nào. Lương ông có hơn triệu bạc, cỗ bàn đình đám tì tì, nhiều khi còn phải ngửa tay xin bà. Mà bà thì chắt chiu từ gà vịt, rau củ quả cũng có đâu nhiều. Tiền xây nhà là do vợ chồng hai anh con trai góp vào, mỗi đứa bốn trăm triệu. Đứa ở Điện Biên, đứa ở Hà Nội. Ông khoán cho thằng cháu họ là kỹ sư xây dựng, thiết kế bản vẽ, dự trù kinh phí. Nói chung là chỉ có từng ấy, thì xây cái nhà từng ấy tiền. Diện tích đất là ngót ba sào cả vườn tược, công trình phụ, mày xoay thế nào thì xoay. Vì nền nhà mới chồng lên nền nhà cũ nên phải đập bỏ nhà cũ, chỉ giữ cái bếp làm chỗ ở trong lúc xây nhà lớn. Đấy, thế mà giờ đây, nhà chưa xong thì tiền đã hết. Thui chó nửa mùa hết rơm, nhục thật.
Thằng cháu cười nhăn nhở. Không ngờ phát sinh lớn quá bác ạ. Phát sinh cả diện tích, cả vật liệu, công thợ và thời gian hoàn thành công trình. Nhẽ ra nhà phải gác giáo vào ngày Sáu âm lịch tháng Mười Một. Thì nay, mùng Sáu tháng Chạp vẫn chửa trát, chửa lát, chửa lợp. Số tiền phát sinh cho ngôi nhà những trăm mấy mươi triệu. Ông nhặt nhạnh vay mượn thu vén anh em họ hàng mỗi người một ít thì vật liệu đủ rồi, còn âm công thợ sáu mươi triệu thôi. Mà trình bày thế nào thằng cai con cũng không nghe. Nó chìa hợp đồng cho ông xem. Nó bảo thi công chậm là do thằng cháu ông can thiệp vào nhiều quá. Đang mái Nhật lại chuyển sang mái Thái. Cửa lớn cửa bé cũng thế, lúc đầu thống nhất là mộc theo xây, giờ đây lại xây theo mộc. Nó còn bảo công trình nhà ông là tổng hợp ngoại hạng các thể loại mẫu thiết kế Đông Tây kim cổ, thợ của nó dù có tay nghề cao, chả thể nào mà hoàn mỹ được. Chưa kể hướng nhà, cũng không như tính toán ban đầu.
Lại nói về cái hướng nhà. Hướng nhà cũ hồi xưa xây năm tám lăm, lúc ông vừa cưới vợ, ông đặt hướng Tây Nam theo thế đất. Nhưng lần này, ông và các con quyết định đặt hướng chính Nam. Kể ra thì cũng hơi sái và vặn đất, nhưng dù sao, đi xem thầy bảo hướng ấy hợp với anh cả. Sau này, anh ấy về đây, là người thờ cúng tiên tổ, mẹ cha, thì hướng thuận. Bà Tiện thì đâu biết cái dụng ý sâu xa ấy, nên mỗi lần đứng từ ngõ nhìn vào cái nhà đang xây, thấy không thuận mắt, thì rỉa rói chồng. Ông tin gì cái thằng học chín năm đại học mới ra trường ấy hả? Ngay cả cái tốp thợ ông chọn. Mang tiếng là thợ kinh kỳ, mà chao ôi, nhìn đứa nào đứa ấy, chả thấy nét tài hoa phú quý nào, chỉ thấy ngứa cả mắt. Ông phản lại. Hiếm hoi lắm ông mới phản lại chua cay thế. Thì có ai vừa mắt bà bao giờ đâu. Ai bà chả chê. Bà đẹp nhất làng, tài giỏi nhất làng, khéo léo nhất làng rồi. Được chưa? Nghe ông nói thế thì bà nguây nguẩy đi vào, ra điều không thèm nói nữa. Phải rồi, cái nết giận dai và tự ái thì cũng nhất làng.
Ông Dân khi xưa là lính chuyên nghiệp, đóng quân ở đồi Gianh. Trong số hằng chục người bạn gái phương xa chăm chỉ thư từ, ông kết nhất cô bạn "Thủy Tiên". Tên đẹp, chữ đẹp, thư thì hay ơi là hay. Đến nỗi, mấy tay cùng đơn vị còn phải ghen tỵ. Bọn chúng bảo nhau số Dân đỏ. Đã đẹp giai, lý lịch ngời ngời (bố là bí thư đảng ủy xã) lại còn có người yêu xinh đẹp giỏi giang học kế toán ngân hàng ở đồi Me. Tóm lại là chàng Dân ngất ngây cả năm trời. Yêu qua thư mà cũng sâu đậm lắm. Khi chàng bảo nàng gửi ảnh thì nàng ấy hồi âm thế này "Đồi Me rất nhớ đồi Gianh/ Ảnh chưa chụp được, người đành gửi thơ". Sau đó còn nhiều câu thơ nữa. Đại ý, nàng muốn chàng bất ngờ khi gặp mặt. Hôm ấy, cũng là hăm sáu Tết, anh bộ đội trẻ được nghỉ phép. Thay vì đạp xe về nhà, anh đạp thẳng xuống trường trung cấp kế toán gặp người yêu.
Với bản lĩnh người lính, nhìn thấy nàng, dù thất vọng điếng người, chàng cũng vẫn giữ được bình tĩnh. Nàng đấy, là Lương Thị Tiện. Chứ chả có Thủy Tiên nào cả. Và nàng cũng chẳng phải là sinh viên nốt. Người nhận thư là bố đẻ nàng, ông làm bảo vệ trường. Và nàng chỉ học dở lớp bảy, ở nhà. Nhà nàng làm rau và chăn nuôi. Ruộng rau nhà nàng cách trường kế toán có một triền ao bèo. Nàng da đen, mặt tròn, mắt một mí, mặt đầy mụn, tóc xù bông, dáng mập lùn. Chỉ được mỗi cái, chữ trong thư nàng viết cho chàng là thật. Nàng thông minh lém lỉnh là thật. Và những thề non hẹn biển của chàng trên giấy mực là thật. Sau này khi đã thành vợ chồng, có dịp nói chuyện về tên, chàng mới biết, tên nàng khai sinh lần đầu là Lương Thị Thiện. Nhưng trong một lần giỗ họ, xem gia phả họ Lương, bố nàng tá hỏa vì ông bành tổ cũng tên Thiện. Sợ bị quở trách, ông lên xã xin sửa lại khai sinh và rút bớt chữ H. Thế là thành Tiện.
Cái màn đem người yêu về ra mắt của ông Dân mới thật sự nhớ đời. Dù không nói trước nhưng người nọ rỉ tai người kia, cả họ đến xem mặt người yêu ông Dân. Sau đó mỗi người chê nàng dâu tương lai một câu, mẹ ông ốm đến cả tháng. Còn bố ông thì chỉ biết thở dài mỗi khi các chú, thím tỉa một câu "tôi chưa từng thấy đứa con gái nào xấu như người yêu thằng Dân".
Bà Tiện khi về làm dâu làng Trưng Vương đem theo nỗi mặc cảm quá lớn về hình thức, dung mạo kém cỏi của mình. Có nhẽ, đanh đá, đáo để từ đây mà sinh ra. Và ông trời cũng thật biết bù đắp. Bà sinh liền hai thằng con trai đẹp như tranh vẽ và giống bố như tạc. Đứa nào cũng cao lớn, tuấn tú ngời ngời.
Làng Trưng Vương là ngôi làng cổ trung du thuộc hữu ngạn sông Hồng. Dân vùng này chủ yếu sống bằng nghề nông và tiểu thương. Khi ông Dân phục viên về làng thì cũng còn trẻ khỏe nên chìa vai gánh lấy cái chức trưởng công an xã kiêm trưởng thôn. Trong lúc ông Dân lấy bận rộn làm vui thì người vợ nhà nông thuần chất như bà Tiện coi đó là việc làm ôm rơm rặm bụng. Lúc đầu bà mượn gió bẻ măng, đánh chó đuổi gà. Nhưng sau chả ăn thua vì hết khóa người ta vẫn tín nhiệm và bầu ông, nên bà công kích thẳng thừng. Bà bảo ông làm công an xã là được rồi, nghỉ cái trưởng thôn đi, nhưng ông không nghe.
Mỗi lần bà nói ông lại cắp sổ và gói chè ra nhà văn hóa. Cãi nhau tay đôi với vợ thì ông không làm được. Vì ông vốn trầm tính ít nói. Nói cay độc với bà thì ông cũng không nói được. Vì sống còn phải làm gương cho hai thằng con trai, hai đứa con dâu và bốn đứa cháu nội soi vào. Nhịn bà thì bà lên nước, lấn tới. Giá có đứa con gái, thì nó có thể tỉ tê khuyên can bà. Rằng, thời buổi nào rồi mẹ còn khư khư giữ cái nết đanh đá chua ngoa ấy. Nhưng chả có con gái. Nên chịu chết. Người ta bảo "dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng". Anh em bạn hữu, đồng niên, đồng tuế, bạn từ thời cùng đơn vị, chả biết họ nghe ai họ bảo "vợ mày tợn lắm", rồi cứ lánh dần. Nhiều khi, ai đó muốn gửi cho ông thứ gì đó hoặc trao đổi gì đó thì đều gọi điện nhắn ông ra nhà văn hóa chứ họ không dám đến nhà.
Ông bàn với bà là đem bìa đỏ đất nhà đi vay ngân hàng để trả công thợ. Bà gạt phắt đi. Nói rằng thằng đàn ông, mang tiếng cả đời cống hiến, sáu chục tuổi rồi, xây nhà bằng tiền của con, giờ lại còn đòi cắm bìa đỏ tổ tiên đi mà vay mượn. Không biết xấu hổ à? Biết thế tôi chả bắt ông phục viên nữa, giờ tha hồ mà lĩnh lương hưu. Về rồi cũng chả làm được gì cho vợ con. Nghe bà nói thế, ông muối mặt. Hỏi con thì không dám, vì nó đã chi ra một khoản lớn như thế rồi. Tất cả là tại thằng cháu, nó vẽ ra mái nọ mái kia, chỗ thò chỗ thụt, lại thêm cả mấy cái cột, rồi vòm nọ vòm kia, toàn công kỹ thuật, mới tốn thế. Chửi nó thì không chửi được vì mẹ nó là em gái ruột ông. Ông chửi nó một tiếng khác nào mào lên cho bà vợ ông chửi luôn đến Tết. Có khi sang năm còn chửi tiếp. Thằng em rể sẽ đánh giá mình chả ra gì. Rồi mỗi khi ai đó nhìn công trình mà hỏi "Tết có kịp về nhà mới không" là bà lại nhanh nhảu trả lời trước. Kiểu này ăn Tết nhà văn hóa là cái chắc bác ạ.
Ông chán chường. Nỗi chán chường từ xương tủy, chán đến từng tế bào. Mọi việc ông làm từ lớn chí bé bà đều có thể giễu cợt, chê trách theo kiểu bới bèo ra bọ. Gần đây, không hiểu sao trong đầu ông Dân hình hài một suy nghĩ rất hèn hạ, thậm chí độc ác. Ông mong cho bà Tiện ốm. Bà Tiện nên ốm một thời gian. Ốm đến mức phải nằm bệnh viện điều trị, để ông vừa cháo lão phục vụ bà, vừa điều hành việc xây dựng nhà cửa, để bà thấy vai trò to lớn của ông. Còn nữa, dư chút thời gian nào thì ông sẽ dành để suy nghĩ và xoay tiền thanh toán cho thợ. Chứ nếu bà khỏe mạnh, đi ra đi vào, moi móc, róc rỉa, cạnh khóe, chắc ông phát rồ ra mất. Xưa giờ, cả làng biết bà đáo để, ông chịu đựng quen rồi. Nhưng đội thợ là dân vùng khác, còn tí thể diện trước họ, ông phải giữ chứ. Ông không muốn họ đem chuyện bà vợ gớm ghê của ông đi khắp tứ xứ mà kể. Và ông cũng không muốn, cái nhà giữa làng, to cao đẹp đẽ thế này rồi đây quạnh quẽ, hai thân già lầm lũi, bè bạn chả ai ngỏ nghê, đoái hoài tới.
Cầu được ước thấy. Bà Tiện ốm thật. Ông bảo đưa bà lên bệnh viện nhưng bà không nghe. Bà bảo của một đống tiền phơi mưa dầm gió đấy bà không yên tâm. Bà cũng chỉ bị thủy đậu thôi. Gọi đứa cháu là bác sỹ đến tiêm được rồi, kiêng khem nữa là ổn. Thôi thế cũng được. Bà cứ nằm yên đấy mà dưỡng bệnh. Nhưng bà đâu có nằm yên. Hễ ông ra khỏi nhà là bà cũng bò dậy. Bà nhòm chỗ này tí, chỗ kia tí, rên rỉ xót xa. Năm nay bà mới năm sáu tuổi cả cúng cơm, mà sao ông thấy bà như tám mươi.
Nhìn công trình ngổn ngang chưa đâu vào đâu, ông Dân sốt ruột lắm nhưng ông không thể thúc giục người ta khi tiền chả có trong tay. Đúng lúc đang tột cùng căng thẳng thì thằng út gọi điện về hỏi han sức khỏe mẹ nó, rồi hỏi đến tiến độ thi công nhà cửa. Ông tần ngần một lúc rồi nói. Kể như giờ có tiền thì chỉ nửa tháng nữa là xong tất tật con ạ. Chết cái là phát sinh. Thế còn thiếu bao nhiêu nữa hả bố? Sáu chục triệu con ạ. Vâng. Con đang ở ngân hàng đây. Con gửi ngay về bảy mươi triệu.
Ông Dân chưa kịp nói thêm gì thì thằng con giai tắt máy. Mừng đến ngây cả người. Ông cởi phăng chiếc áo khoác dạ đang mặc, ngoắc lên cành bưởi và bấm điện thoại. Mả cha nó, cứ như nó biết ông có tiền, chuông vừa đổ nó đã liến láu. Con đây ông ơi. Ơi ời gì. Anh không dồn thợ làm xong cho tôi đi. Để hai cái thân già này nằm sương nằm gió đến bao giờ? Được rồi bố ạ. Mai sẽ có mười lăm chiến sỹ. Nhà bố, con tính rồi, hai trăm công nữa là nét nẹt. Độ mươi hôm nữa thôi bố ạ. Bố cứ chuẩn bị tiền cho con đi. Cho bố gối lại một nửa đến ngoài Giêng con lấy. Nói thật, bố cứ kêu sương gió, chứ cái bếp nhà bố còn to hơn ối nhà đấy. Ông Dân tỏ ra hào phóng. Thôi, tôi chả dám nợ anh. Anh cứ xong xuôi gọn gàng là tôi trả hết.
Buông cái điện thoại là ông vớ lấy cái xẻng, xúc chỗ này, san chỗ kia. Gạch vỡ để một chỗ, gạch vụn một chỗ, vật liệu mạch nào riêng mạch ấy. Ông cứ mê mải đến tận khi có tiếng bà vợ gọi ông mới vội vàng đi vào.
Bà Tiện ngồi xếp bằng trên giường, vừa kẹp tóc vừa ngân nga một câu chèo. Bà đói chưa để tôi đun lại cháo? Ông đem cái cháo ấy đổ cho vịt con. Trưa nay tôi ăn cơm, chán cháo lắm rồi. Ông mang nồi cháo còn âm ấm đi ra máng vịt, cháo ngon thế này mà chê. Xưa, cám chả có mà ăn. Tiện thìa, ông xắn một miếng cháo đặc như bánh đúc bỏ vào miệng. Ông phồng mồm cố nuốt. Chết thật, ông nấu cháo mà quên không nêm mắm muối gì cả. May mà bà ấy tưởng người ốm thì nhạt miệng.
Lũ vịt con được ăn cháo người ốm thì thích quá, no nê rồi lạch bạch chạy tứ tung. Trước đây, bà là chúa tằn tiện. Từ đồ ăn thức uống đến vật dụng bà đều tính toán sít sao. Ăn bao nhiêu sắp bấy nhiêu. Món đồ nào của bà cũng là vĩnh cửu. Không thấy hỏng hóc bao giờ. Để đập cái nhà cũ đi, ông phải vận động bà hết ba đêm. Vì bà muốn giữ lại cái nhà ấy làm kỷ niệm, chỉ cần xây tấn ra phía trước thôi. Thấy nửa chậu nước trong nhà tắm bà cũng nói là ông rửa tay hết bao nhiêu thì vặn bấy nhiêu, vặn nhiều thế để làm gì. Hồi ông chưa phục viên, về nhà, thấy cái áo của bà vá dăm bảy miếng vẫn chưa được làm giẻ lau, ông bảo bà đừng tiết kiệm quá làm gì. Bà bảo mặc áo vá cho mát. Càng nghĩ ông càng thấy, kể bà cũng tài. Ông cứ vác tù và hàng tổng thế suốt mười lăm năm, mình bà lo liệu và nuôi hai con ăn học, cưới hỏi vợ cho. Rồi đùng cái đầu năm nay bà bảo hay là xây cái nhà to, anh em chúng bay Tết giỗ đưa vợ con về cho rộng rãi. Ông ngạc nhiên vô cùng vì nghĩ bà sao liều lĩnh thế, dám bảo con cái góp tiền xây nhà. Vậy mà, chúng nghe bà răm rắp.
Cái thằng cai giữ lời thật. Có ngày đông, ông đếm đến hăm mốt thợ. Việc trôi vèo vèo. Đến ngày thứ chín thì chỉ còn bảy thợ ở lại làm nốt phần việc ngoài cổng. Ngày 16 tháng Chạp, ông bà làm mấy mâm cơm thịnh soạn để "đuổi thợ". Cuối bữa ăn, bà vào buồng lôi ra một bọc lì xì. Mỗi thợ được bà mừng tuổi một trăm nghìn và một quả bưởi ngọt vàng suộm rứt từ vườn nhà. Cánh thợ vui vẻ, cảm động lắm. Ông mát hết cả mặt.
Hai tám Tết là con cháu về đông đủ. Bốn đứa trẻ con chạy nhảy trên cái sân lát gạch rộng rãi như những con chim non sổ lồng, nhìn sướng cả mắt. Hai cậu con trai cứ xuýt xoa căn nhà đẹp quá, rộng rãi thoáng đãng, tết xong sẽ tài trợ tiền để ông bà sơn. Cậu cả sau khi ngắm nghía tổng quát thì khen nhà hướng Nam là nhất rồi. Nơi thềm, bà Tiện ngồi trên chiếc ghế gỗ để hai cô con dâu tân trang đầu tóc. Năm nào chúng cũng mang đồ về ép tóc cho bà. Tóc bà phải ép đến hai lần mới thẳng ra được vì xù ghê gớm, nếu không ghim kẹp, trông như bà đội một búi rơm nếp vò trên đầu. Năm nay, đứa dâu lớn bảo hay con đưa bầm ra phố làm xoăn luôn. Tóc bầm đã bông sẵn, làm xoăn sẽ đẹp lắm. Bầm đã làm xoăn bao giờ chưa? Bà Tiện liếc nhìn ông, tủm tỉm. Hồi mẹ hai mươi, mẹ cũng làm xoăn một lần. Mẹ hơ nóng cái đũa trên bếp rồi tự uốn. Để đi gặp bố các anh chị lần đầu ấy.
Nghe bà nói thế, ông Dân thấy lòng bồi hồi khó tả. Đúng là, cái đẹp nằm trong con mắt kẻ si tình. Dù thiên hạ có nói gì, với ông và các con, bà vẫn là người phụ nữ đẹp nhất. Trong niềm ân hận về việc mình đối xử chưa được công bằng với vợ, ông định nói gì đó với bà. Nhưng ngặt nỗi, bọn trẻ cứ bám lấy bà để đòi nọ đòi kia, và bà cứ như lảng chuyện ông như là còn giận.
Đêm ba mươi tết, sau khi sắp sẵn mâm cơm cúng giao thừa đặt lên án thì cả trai gái dâu rể cùng các cháu nhà ông kéo nhau xuống thị trấn xem pháo hoa. Chúng rủ rê lôi kéo thế nào bà Tiện cũng không đi. Còn ông thì bảo nhà ta ở cao, đứng đây nhìn ra chỗ pháo hoa rất rõ, tội gì mà đi cho rét. Đứa cháu nội trêu. Bà không đi thì ông cũng không đi chứ gì!
Khi chỉ còn hai người, ông mới rỉ rả làm lành. Tôi đang lo bà ạ. Cả vay thằng út nữa là chúng ta nợ đến một trăm bốn mươi triệu. Đời tôi chưa bao giờ lại nợ ai số tiền lớn như thế. Bà vẫn mải xem tivi nên bâng quơ. Vay thì sao? Ai làm nhà mà chả phải vay! Vẫn biết thế. Ý tôi là tôi thì đang nợ nần mà bà vẫn có tiền mừng tuổi cho thợ và làm bữa ra thịnh soạn thế. Bà vẫn mải xem. Thế theo ông thì tiền ở đâu ra mà tôi mừng tuổi thợ? Tôi làm sao biết. Bà cho ti vi nói nhỏ hơn, nhìn thẳng vào mắt ông mà nói, như thể đây là lúc bà cần thẳng thắn nói với ông một chuyện rất quan trọng. Tôi nhặt nhiệm từ cái vỏ lon bia bố con ông uống xong liệng vào thùng rác. Cả cái vỏ chai nhựa người đi đường ném xuống cống, xuống ruộng tôi cũng nhặt lên. Tôi nhặt từng mảnh bìa, từng cái túi ni lon, từng cái vỏ bao xi măng, từng chiếc đinh, mẩu sắt, hay cái dép nhựa cũ. Trong nhà mình, những gì thừa thãi mà lợn, gà, cá ăn được thì tôi cho chúng ăn, còn lại thì tôi chôn xuống đất làm phân. Những thứ gì không tan được vào đất thì tôi gom lại để bán cho đội buôn phế liệu. Tất cả, chỉ riêng năm nay, tôi để dành ra được hơn ba triệu từ những thứ tưởng vứt đi ấy. Tôi giữ lại một bao lì xì cho ông đây, còn lại tôi tặng thợ hết. Họ làm nhà ta cả gần năm còn gì. Ra nhìn thấy nhau, vào nhìn thấy nhau, ăn với nhau bao bữa cơm.
Thế à? Tôi tưởng... Vâng. Ông lúc nào cũng tưởng. Ông tưởng bảy mươi triệu thằng út gửi hôm nọ cho ông đi rút là của nó đấy phỏng. Nó làm gì còn tiền? Năm ngoái đầu tư gì đó, thiếu tiền, phải vay của tôi. Vừa rồi thấy ông lo cuống vó, tôi mới bảo nó gửi trả. Hả, bà có những bảy mươi triệu cho con vay cơ à? Chứ sao! Thế ông tưởng hai thằng con ông có tiền góp cho ông xây nhà chắc? Tôi đời nào lại bắt con góp tiền xây nhà cho tôi ở. Tôi dặn các con nói vậy thôi. Để ông nghĩ là tiền của các con mà không chi tiêu bạt mạng, hoang phí. Đấy, tôi sát sao thế mà ông vẫn bùi tai nghe thằng cháu vẽ ra nọ kia để rồi thiếu hụt. Tiền của tôi cả. Tám trăm triệu ấy là của tôi, của chúng ta.
Thế bà làm gì mà có nhiều tiền thế? Làm gì à? Nếu tôi cũng hào phóng, thơm thảo, tốt bụng như ông thì làm gì có. Nếu tôi xinh đẹp như vợ người ta, nay đây mai đó du lịch hay chùa chiền, rồi thì váy áo, rồi câu lạc bộ nọ kia giao lưu thì làm gì có. Tôi có tiền là vì tôi hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn và xấu xí đấy. Tôi chỉ ở nhà lấy việc kiếm tiền, chắt chiu, dành dụm làm vui. Tôi đanh đá, đáo để chua ngoa là để những kẻ chuyên lợi dụng người khác không bám được vào mà bòn gột nốt chút sức già của ông. Ba mươi lăm năm làm vợ ông tôi tiết kiệm được tám trăm triệu có gì là nhiều. Số tiền tôi tiêu cho gia đình này lớn bằng mấy tòa nhà như thế này ấy chứ. Ông không bao giờ nghĩ xem là tiền từ đâu à? Tôi tiết kiệm bằng vàng, từ nửa chỉ một. Chưa bao giờ tôi đến tiệm vàng mà mua nổi một lúc ba chỉ. Đầu năm rồi vàng đắt tôi mới đem bán. Tôi cũng không nghĩ là được nhiều tiền thế. Rồi tôi mới bàn với ông việc xây nhà. Giờ còn số tiền tám chục triệu ông vay mượn bà con họ hàng, ông cố mà dành dụm gom góp để trả. Tôi chỉ cần ông lo lấy bằng ấy, lo lấy cái khoản vì ông không kiên định mà phát sinh. Tôi vất vả nhọc nhằn, làm tất cả để ông không bị thua bạn kém bè nhiều quá. Cùng lắm là thua họ một bà vợ xinh đẹp dịu dàng thôi.
Ông Dân run hết cả người. Ông muốn cầm tay vợ mà nói là tôi đã hơn thiên hạ một bà vợ rồi. Có thế thôi, mà ông không nói được. Cả việc ông từng cầu mong cho bà ốm nặng ông cũng không dám thú nhận với bà. Ông chỉ dám nắm lấy hai bàn tay sần chai của bà mà siết chặt.
Đúng lúc ấy, tiếng pháo hoa vang lên từng tràng phía ngoài hồ nước. Ông kéo bà ra sân. Nhưng vì bà lùn quá, ông lại chạy vào, bê cái đôn bằng gỗ ra, nhấc bổng bà, đặt lên đó. Đấy, bà đã thấy rõ chửa. Bà cười ngượng ngùng. Tôi chịu ông, chốc bọn trẻ về cười cho. Cười gì! Nhìn vào mắt bà, ông như nhìn thấy rõ cả những bông pháo hoa đang bung lên rực rỡ.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...