Thứ tư, ngày 29 tháng 01 năm 2025
07:43 (GMT +7)
Tác phẩm tham dự Cuộc vận động sáng tác văn học, nghệ thuật về Đại đội Thanh niên xung phong 915

Mùa thị chín

Dọn dẹp mâm bát xong, Cát ý tứ nháy cô bạn lẳng lặng lẻn ra ngõ. Trăng đã nhô lên khỏi rặng cây, vành trăng khuyết rắc ánh vàng non nõn ướt rượt lên cỏ. Từ hẻm núi, đom đóm bung ra lập lòe như thi sáng với trăng, nhiều con rã cánh liệng xuống đường vẫn cố rướn hết mình phát ra chút ánh sáng ma mị.

Càng gần đến điểm hẹn, trống ngực Cát càng đập rộn nhịp. Bước chân cô ngập ngừng nửa muốn bước nhanh hơn, nửa muốn vòng trở lại. Lần đầu tiên từ ngày đi thanh niên xung phong, Cát liều mạng trốn tiểu đội. Sẽ không có việc “tày trời” như thế này, nếu buổi chiều Khôi không gặp tiểu đội và báo tin anh đã mãn khóa, ngày mai sẽ nhận xe chở hàng ra mặt trận.

Giá như mọi bận, cả bọn sẽ xúm lại trêu chọc Khôi và Cát, nhưng hôm nay chẳng ai bảo ai, tất cả kêu khát nước lỉnh vào xóm, bỏ mặc Cát lóng ngóng ngồi bên vệ cỏ. Liếc bóng các cô gái khuất sau bờ rào, Khôi ấp úng: “Có lẽ…cấp bách lắm, cấp trên yêu cầu lên đường ngay”. Cát vân vê tà áo: “Thủ trưởng anh nói cuối tháng sau mới kết thúc khóa học cơ mà”. “Chương trình như vậy, nhưng học viên đã biết lái, nhận xe rồi vừa đi vừa học tiếp. Thầy bảo vượt được Trường Sơn, trở ra khắc có bằng tốt nghiệp”.

Những ngày qua, Đại đội 915 được giao sửa chữa đoạn đường thuộc địa phận làng Phan, đường 16A này. Để phối hợp thực hiện nhiệm vụ, trường lái xe Tiến Bộ cho Đại đội mượn hai gian nhà để đội viên ở tạm. Ngày nào Cát cũng thấy các anh tập luyện rất khẩn trương. Hầu như học viên phải chia ca kíp để học lái cả ngày lẫn đêm, khác hẳn các khóa học trước đó. Nhiều lần đi ngang qua, vô tình gặp ánh mắt rất lạ của Khôi nhìn mình, cô cũng thật sự bối rối.

Chiều hôm nay, Cát nhìn thấy bóng Khôi đạp xe từ phía góc làng. Giọng anh ngập ngừng nhưng có vẻ gấp gáp: “Tối nay cho phép anh…gặp em một chút nhé! Ở chỗ này đi em…”. Cát ngỡ ngàng: “Ôi, nhưng…”. “Anh không biết có còn cơ hội được trở về nữa không…”. Nghe Khôi nói vậy, Cát đáp nhanh qua hơi thở: “Vâng! Thế nhé. Em đi làm đây!”

Ánh trăng đêm nay dường như sáng hơn làm cô bối rối. Hẹn hò yêu đương đại đội đã phổ biến quy định cấm. Nhưng khi nghe Khôi nói ngày mai ra trận dường như cô đã quên tất cả và dễ dàng nhận lời hẹn gặp của  anh.

Trong những ngày cùng trung đội ở tạm trong trường lái xe Tiến Bộ, chưa khi nào anh và cô có cơ hội nói chuyện riêng. Thường sau bữa cơm chiều, cánh học viên và các cô gái thanh niên xung phong chỉ túm tụm tán chuyện chốc lát trước khi vào giờ sinh hoạt. Những lúc ấy, lần nào Khôi cũng đến nhưng anh rất ít nói, ai đùa trêu chỉ ngượng ngập cười trừ.

“Em…”!

Cát giật nảy người. Khôi đến bên cô đột ngột như trên trời rơi xuống. “Cái anh này... Làm em sợ chết khiếp.”. “Bộ đội mà em. Bọn anh Đi không dấu, nấu không khói”. “Can tội… coi em là giặc… Ghét!”. Cát phụng phịu ngồi bệt xuống vệ cỏ, những lá cỏ lóng lánh ánh trăng. Khôi ấp úng xin lỗi. Họ ngồi bên cạnh nhau. Tiếp đó là những câu chuyện không đầu không cuối như thể của trẻ học vỡ lòng. Mãi sau Khôi mới ngập ngừng đưa cho cô quyển sổ tay: “Tặng em để ghi bài hát hoặc nhật ký, trong này có địa chỉ quê anh… Chiến tranh… bom đạn ác liệt. Anh đi chẳng biết thế nào!”. Cát đưa tay bịt miệng Khôi: “Phỉ phui cái miệng anh. Phải tự tin ra trận chứ”. “Không tự tin, anh đã không tình nguyện nhập ngũ. Cái chính là…với em…anh…”. Khôi bỗng siết chặt tay cô, hơi thở gấp gáp. Cát như thấy có luồng điện chạy qua người, chợt run lên lẩy bẩy. Khôi choàng tay vuốt nhẹ mái tóc và kéo cô ngả đầu sang vai mình, thủ thỉ: “Đợi anh em nhé...”. Bất chợt tiếng còi báo động vang lên dồn dập. Khôi hấp tấp: “Cát ơi”. “Dạ!”. “Anh yêu em!”. Và nụ hôn của họ tan vào tiếng còi báo động, tan vào trăng…

Cát chạy về đến hầm thì máy bay địch ập đến, tiếng gầm rú xé toang bầu trời. Mấy cô bạn ồ lên mừng rỡ. Từ các trận địa phòng không, pháo cao xạ đồng loạt khạc lửa. Máy bay Mỹ trúng đạn bùng cháy sáng bừng trên bầu trời như ngọn đuốc khổng lồ từ từ rơi xuống. Cát bất giác mỉm cười ngượng nghịu, nụ hôn đầu đời như vẫn ngọt trên môi. Cô ôm cuốn sổ vào ngực, người nóng ran, miên man lạc trong vòng tay ghì xiết. Cũng may chớp lửa hắt vào hầm không đủ sáng.

*  *  *

Ánh hoàng hôn làm khúc sông Cầu tím lịm. Vừa giặt áo, Cát vừa lẩm nhẩm lời bài hát: “Đường Trường Sơn xe anh qua” đại đội mới dạy trong buổi sinh hoạt văn hóa. Không biết giờ này anh đã tới Trường Sơn chưa? Mỗi lần nghe nói ở Trường Sơn, quân địch trút hàng ngàn tấn bom đạn quyết chặn đường tiếp viện của ta, Cát lại bồn chồn đứng ngồi không yên. So với bộ đội các anh nơi tiền tuyến, vất vả gian khổ của cô và đồng đội chắc không đáng gì. Ngày còn ở nhà, mỗi lần thấy Cát đi nương, vai gánh củi, mặt nhăn như tay nải cũ, mẹ cô thường quở trách: “Con gái con đứa… Nhìn như hoa tầm bóp thế kia, rồi có chó nó lấy”. “Mệt thế này, mẹ bảo còn sức đâu mà tươi. Con không lấy chồng đâu, ở nhà với mẹ thôi”. “Tôi không thiết nuôi báo cô chị. Mau xem thằng nào nó rước, đẻ con mang về cho tôi nhờ”. Nói vậy, chứ bà biết tỏng lũ con trai say con bà chả khác nào uống rượu ngô. Từ bé Cát đã như nụ hoa lê, càng lớn cô càng đẹp. Nhiều nhà đánh tiếng xin gả cho con trai họ nhưng ông bà chưa bắt nhời. Nghe tin cô đăng ký đi thanh niên xung phong với Đoàn xã, bố cô nổi giận: “Con gái có thì. Mấy năm quay về bản quá lứa, ma nó thèm. Ở nhà tao bắt cho tấm chồng”. Phải mất nhiều buổi khóc lóc, năn nỉ, bố mẹ cô mới xuôi.

Tham gia thanh niên xung phong được ít ngày, Cát tình cờ quen Khôi. Hôm đó cô cùng các đội viên nữ được phân công lên rừng lấy củi cho nhà bếp. Chiều gánh xuống chân dốc, nhóm học viên lái xe cũng đang hì hục học đề ba. Mai, cô bạn bạo nhất tiểu đội, chẳng rõ học lái xe khi nào, tay chống nạnh ra điều hiểu biết: “Côn, ga, tay phanh, chỉ có thế thôi mà sao cứ lúng túng như thợ vụng mất kim thế mấy anh ơi”. Nhóm lái xe đang mướt mồ hôi, tưởng cô giỡn chơi, gật gù cười: “Em thử xem nào. Nếu em làm được, cho em lái xe chở củi về”. Nào ngờ, Mai nhảy lên xe đề nổ. Rồi “vèo” một cái, lái xe lên tận đỉnh dốc làm cánh học viên lái xe há hốc mồm. Ông thầy của nhóm học viên, phần vì nể tài của Mai, phần muốn lấy lòng các đội viên nữ, hô quân xắn tay áo bốc củi lên thùng. Giữ lời, Mai cầm vô lăng vòng xe về đơn vị. Cát và Khôi cùng ngồi trên những bó củi lắc lư. Hai người quen nhau từ đấy.

 *  *  *

Trưa tròn bóng. Nắng đổ nhẫy trên những lưng áo đẫm mồ hôi. Chiếc xe tải đỗ xịch ngay giữa đường. Đại đội trưởng Triệu Đức Việt nhảy xuống từ cửa xe, mở xà cột nhìn Cát một thoáng rồi lại ngần ngừ:

- Gia đình Cát có việc, cô có thể về 7 ngày. Tôi đã liên hệ nhờ xe của Gang Thép lên măng gan lấy hàng. Tối cô mang tư trang đến ngủ cùng bộ phận cấp dưỡng, mai tôi cho người đèo sang đi xe với họ sớm.

Cát đứng chôn chân lặng người, tiểu đội xúm lại ngỡ ngàng:

- Có việc gì vậy đại đội trưởng?

Không đừng được, Việt rút từ xà cột bức điện báo tin bố của Cát mất. Nghe đọc, đầu óc Cát quay cuồng, mắt  nảy hoa cà hoa cải, nấc lên và ngã khuỵu xuống.

Mọi người dìu Cát về lán.

Cát nằm rũ người trên giường suốt cả buổi trưa, không nói không rằng. Mai phe phẩy quạt, động viên:

- Dậy ăn bát cơm đi em. Đằng nào thì cụ cũng đi rồi. Buồn đau quá thì người mất cũng chả sống lại được. Sinh lão bệnh tử, âu cũng là cái lẽ ở đời. Bọn chị đi làm, em cứ nằm nghỉ tối hẵng sang bên kia.

Nghe nói đến đi làm, Cát vùng dậy, cài lại khuy áo, sửa soạn ba lô, không để ý bát cơm đồng đội phần từ trưa đã nguội ngắt, mặt ráo hoảnh:

- Em đi làm cùng các chị, tối sang đại đội luôn cho tiện.

Mặc mọi lời khuyên ngăn, Cát đeo ba lô, xách xẻng lầm lũi đi theo tiểu đội. Đúng lúc ấy, Cát bỗng ngộ ra một điều, giữa mất mát và nỗi đau lớn, con người ta nếu không muốn gục ngã, phải biết chọn cho mình cách đứng lên. Ở quê đã có anh em họ mạc, láng giềng, mai mình về chắc bố đã mồ yên mả đẹp. Vùi mặt vào thương xót thì ông cũng đã ra đi… Cát thấy mình mạnh mẽ và hoàn toàn tỉnh táo. Con đường này là vị trí giao thông huyết mạch chi viện cho chiến trường, nó phải luôn được thông tuyến. Rất có thể xe của Khôi cũng có mặt trong đoàn xe nối nhau ra trận kia.

Cắm ngọn cờ đuôi nheo hướng dẫn xe vòng tránh qua khu vực lầy thụt, Cát cùng tiểu đội mải miết làm việc. Gương mặt cô đỏ bầm dưới ánh nắng gay gắt. Còi báo động lại cất lên, chiếc xe cuối cùng cũng khuất sau khoảng đất trống. Mệnh lệnh của tiểu đội trưởng: “Sơ tán sang phía chân đồi”. Cát khoác vội ba lô, vác xẻng nhảy xuống con hào theo đồng đội. Vừa vượt khỏi đuôi hồ Bi Gù, máy bay Mỹ đã nhào tới cắt bom. Tiếng nổ như sấm sét sầm sập đổ xuống. Đất đá, cành cây tung lên cùng khói bụi mù mịt. Quả bom nổ gần hất Cát ngã đập mặt xuống cỏ. Phương nhào tới kéo mạnh: “Cơ động nhanh lên hầm.”. Vừa chạy được vài bước, một tiếng nổ chát chúa kèm hơi nóng khủng khiếp tạt ngang. Cơ thể Cát bỗng nhiên lạnh toát, mắt tối sầm. Miệng chạm bùn, người căng cứng, cô chỉ biết cố đạp chân để bay lên.

*  *  *

Cuối năm 1975, một người lính mặc quân phục, xách túi hoa quả và thẻ hương men theo lối nhỏ đi về phía chân đồi. Không ai biết đó là Khôi, người chiến sĩ học lái xe khu vực này năm nào. Qua vệt hố bom đã mọc đầy cỏ dại, Khôi ngẩn người suy tư. Bà cụ làm vườn gần đó ngước nhìn ngạc nhiên:

- Chú tìm gì vậy?

- Dạ, thưa bác! Cháu tìm nơi cô thanh niên xung phong hy sinh hôm 13 tháng 9 năm 1972.

Bà cụ bỏ việc, vừa dẫn đường cho anh vừa chép miệng thở dài:

- Tội nghiệp con bé, nó bị mảnh bom phạt ngang người, không cứu được. Trận ấy còn 8 cô nữa bị thương, nhưng may mắn đều qua khỏi.

 Tới bên một cây thị xanh tốt, bà rơm rớm nước mắt:

- Cô ấy hy sinh đúng chỗ này. Ruột gan văng ra ngoài, đội cứu thương phải gom vào chậu úp lên bụng. Giữa vũng máu, năm sau tự nhiên mọc lên cây thị này. Dân làng bảo cô ấy linh thiêng đem thơm thảo cho đời. Chả mấy nữa cây sẽ cho quả.

Dưới gốc thị, nhiều chân nhang đã cũ. Nén nhang của Khôi hanh hánh nắng chiều. Tiếng anh nhẹ như gió thoảng: “Cát ơi! Anh về với em đây…”.

Mấy chục năm sau, cây thị đã tỏa bóng sum suê như cổ thụ. Ngày Cát hy sinh cũng là mùa thị chín, những chùm quả lúc lỉu nây tròn, óng lên màu trăng. Mỗi lần về thắp hương cho cô tại gốc cây này, Khôi đều chắp tay xin trẩy một giỏ thị cho người thân. Cứ mỗi mùa thị chín, hương thơm của núi rừng lại phảng phất trong phố nhỏ.

Từ góc vườn của Khôi, cây thị được nhân giống từ một mùa quả chín cũng lặng lẽ xanh.

Truyện ký. Phan Thái

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Đại đội 915 còn mãi với nước non (Tập 2)

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 2 năm trước

Đại đội 915 còn mãi với nước non (Tập 1)

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 2 năm trước

Phối hợp triển khai sáng tác văn học về Đại đội 915

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 2 năm trước

Tiếp tục tuyên truyền có điểm nhấn về Đại đội TNXP 915

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 6 năm trước

Những nụ cười vẫn sáng lên

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 6 năm trước

Họ đã tham gia cuộc chiến như thế

Cuộc vận động sáng tác VHNT về Đại đội TNXP 915 6 năm trước

Nhật ký cô văn thư

Xem tin nổi bật 6 năm trước