Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024
01:24 (GMT +7)

Múa Tắc xình trong Lễ hội cầu mùa

VNTN - Những ngày cuối năm, lên huyện Phú Lương, về các xóm, bản, tổ dân phố dự ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, có một thú vị là trong chương trình văn nghệ chào mừng, nhiều khu dân cư lựa chọn tiết mục múa Tắc xình để biểu diễn phục vụ nhân dân. Để giải đáp thắc mắc của tôi, ông Bùi Quang Sơn, Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Phú Lương cho biết: Sau khi trở thành di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, Tắc xình - một vũ điệu cổ gần nghìn năm tuổi của đồng bào người dân tộc Sán Chay đã nhanh chóng trở thành “đặc sản” văn hóa của huyện và của tỉnh.

Ông Hầu Thanh Tĩnh, Nghệ nhân ưu tú, tự hào: Tôi là người được lớn lên cùng câu hát Sấng cọ và vũ điệu Tắc xình Đồng Tâm. Người dân tộc Sán Chay chúng tôi tự hào có dân vũ Tắc xình. Dù điệu múa từng có gần nghìn năm tuổi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, nhưng không bị lai căng, pha tạp. Bản sắc riêng, độc đáo của vũ điệu cứ hồn nhiên tồn tại trong cộng đồng dân cư. Từ chất nhạc được cất lên từ hồn rừng, hồn núi và điệu nhảy gần gũi với cuộc sống lao động sản xuất của đồng bào, nên giữa một xã hội của công nghệ thông tin, nhưng Tắc xình không bị các dòng nhạc hiện đại lấn lướt.

Đồng chí Trần Văn Hải, Bí thư chi bộ xóm Đồng Tâm tự hào: Kể từ ngày lập làng (năm 1926), 7 gia đình mang các dòng họ: Hầu, Trần, Lý, Bế bên xã Khe Mo (Đồng Hỷ) di cư về khai khẩn ruộng, nương tra hạt mố, lấy tên làng là Đồng Báng. Sau năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, tên làng được đổi thành Đồng Tâm. Năm tháng trôi mau, các dòng họ sinh sôi, đông con, nhiều cháu, làng xóm thêm ấm áp hơi người, nhưng dân vũ Tắc xình và câu ví Xình ca luôn là hồn cốt của người Sán Chay. Đến nay, xóm Đồng Tâm có 147 hộ, người dân tộc Sán Chay chiếm 95%. Thu nhập của người dân chủ yếu trông vào việc cấy lúa, trồng ngô và chăn nuôi gà, lợn.

Ông Hầu Văn Nhân kéo chúng tôi vào nhà, mời ngồi vào bộ bàn ghế gỗ mộc. Tay pha trà, miệng nảy cây hát trong hào hứng. Ông Nhân làm trưởng xóm, nên ngôi nhà của ông thường được bà con trong xóm đến gặp gỡ, cùng hát, múa giao lưu. Từ bàn trà nhà ông Nhân, nhìn sang bên đường là cánh đồng, khi lúa, lúc ngô cứ thay nhau gối vụ. Xa hơn chút nữa là ngôi nhà sàn chắc chắn do bà con dựng lên từ năm 2007 làm nơi sinh hoạt chung. Vui nhất là những buổi bà con tổ chức nhảy Tắc xình và hát ví Xình ca. Từng bước nhảy, lời hát được thực hiện trên nền nhạc mang đậm hơi thở của núi rừng. Trong số các già làng ở Đồng Tâm, cụ Hầu Thái Vinh và cụ Hầu Văn Đạo là người thông hiểu âm luật, vũ điệu và lời ví Xình ca hơn cả. Qua những cuốn sách bằng chữ Nho của gia tiên để lại, các cụ đã dày công dịch lại từng câu ví, điệu múa, chép vào vở viết, rồi truyền dạy lại cho các con, cháu.

Múa Tắc Xình trong Lễ hội cầu mùa ở Phú Lương                  Ảnh: Quang Sơn

Sau nhiều năm gần như bị lãng quên, giai điệu: Tắc, tắc, xình… bắt đầu được phục dựng, tôn tạo lại đúng bản sắc gốc. Ông Tĩnh nhớ lại: Đó là vào đầu năm 1996, trước ngôi nhà sàn của gia đình, đào, mận vừa độ khoe sắc, chè bắt đầu nảy chồi non, lúa ngoài đồng vào kỳ bén rễ, rừng chò trước nhà hồi xanh sau tháng ngày đông giá, đám con trai là Trần Văn Sáng, Hầu Văn Huy… đám con gái là Trần Thị Lịch, Trần Thị Vàng bẽn lẽn đến nhà học Xình ca và nhảy Tắc xình. Thấy nhà ông Tĩnh vui như hội, người già, em nhỏ trong xóm đến xem, rồi máy môi học theo. Qua những mùa lúa chín, đến nay người xóm Đồng Tâm hầu như ai cũng biết ví Xình ca và nhảy Tắc xình.

Từ ngoài cửa, ông Trần Văn Nhần cất câu ví thay lời chào.

“Nình dầu mần làng làng

pao chăn

Lang sì thin ca thìn ốc nhăn”

Tạm dịch:

“Em muốn hỏi anh anh nói thật

Anh là thiên nga hay người trời”

“Vù tàu sính sìn hồng hình tàu

Tông slằm tí lươợc

mòi trừng slằm”

Tạm dịch:

“Em có hỏi thì anh trả lời thật

Anh không phải người trời,

anh chỉ là người làng”

Hát xong, ông lấy trong túi áo ra cuốn sổ tay, trong đó có chép lại 364 câu ví. Ông Nhần cho biết: Lớp cao tuổi ở xóm thuộc nhiều câu ví và am hiểu vũ điệu Tắc xình gồm có tôi, Hầu Văn In, Trần Văn Định, Nịnh Thị Thậm…

Ví Xình ca thường được cất lên ở hội làng, lúc trai - gái “say đắm” sau vũ điệu Tắc xình. Lối hát ví Xình ca cũng như như người Bắc Ninh hát quan họ. Nhưng quan họ day dứt lời hò hẹn vì liền anh, liền chị không lấy được nhau. Còn Xình ca và dân vũ Tắc xình cho trai - gái nên duyên. Chuyện cụ Hầu Văn Toòng ngày còn trai trẻ đi bộ mất ngày đường mới đến xóm Đồng Dong (La Hiên, Võ Nhai), hát ví liền mấy đêm và đã tìm được bạn đời là cụ Dương Thị Hòa. Dạo đó, tiếng hát của anh Toòng đã làm chị Hòa mê mẩn, mang quần áo theo về Đồng Tâm làm vợ anh Toòng. Sau đó 2 gia đình mới làm thủ tục cưới hỏi cho 2 người theo phong tục.

Ông Trần Đức Nguyên, một trong những người thuộc nhiều lời của giai điệu Xình ca giải thích: Sau khi gặt xong lúa, ruộng chỉ còn trơ lại gốc rạ, ở một góc ruộng, cái hố được đào giống như hình chiếc chum, trên miệng hố bịt lại bằng vỏ cây trẹo (loại cây vỏ dai), sau đó dùng 1 sợi dây rừng (cây thau thăng) căng trên mặt. Khi gõ vào sợi dây, âm thanh sẽ được tạo ra: Trống lớn, trống nhỏ, trống nứa (náy trooc); quả chuông, chiêng, chập xeng (sắm sẹ); nhạc cụ hơi, gồm: Kèn tổ sâu làm bằng lá cây; kèn Pó lè. Tùy thuộc vào số người tham gia nhảy Tắc xình để làm trống lớn hay trống nhỏ, song ít nhất phải có từ 3 đôi trở lên, và càng nhiều đôi tham gia càng vui.

Ông Hầu Văn Nhân cho biết thêm: Vào ngày 2-2 âm lịch, người dân xóm Đồng Tâm sắp lễ lên đình, miếu ở rừng chò để tạ ơn trời - đất; tạ ơn thần linh đã cho mưa gió thuận hòa, mùa màng tốt tươi, bản làng no ấm và cầu khẩn sự che chở trong vụ tiếp theo. Sau nghi lễ, mọi người tham gia hát ví và nhảy múa Tắc xình. Đó là vũ điệu thể hiện đạo lý tưởng nhớ tổ tiên, là cầu nối tâm linh giữa đất - trời và lòng người, cõi sống và cõi chết, thế hệ trước và thế hệ sau. Điệu múa thắp lên niềm tin, khát vọng chinh phục thiên nhiên của người dân lao động. Trong nghi lễ cầu mùa, múa Tắc xình gồm 9 điệu cơ bản: Thăm đường; Lập làng; Bắt quyết; Đánh, mài dao; Phát nương, dọn rẫy; Tra mố; Hái lượm; Mừng mùa vụ và điệu Chim câu. Theo nhịp trống: “tắc” thì dơ chân lên, “xình” thì hạ chân xuống. Giản đơn như vậy, nhưng cũng phải để tâm học nhiều ngày mới có thể thuần thục các động tác múa Tắc xình.

Tiếng trống đất của đồng bào người dân tộc Sán Chay mang 2 âm điệu cơ bản là: Tắc và xình. Tắc (thanh cao) và xình (thanh trầm). Trải qua nhiều thế hệ, từ 2 âm thanh Tắc và xình được đồng bào biến hóa linh hoạt, tạo ra những nhịp điệu vui nhộn. Và trong âm hưởng của tiếng trống còn hội tụ đầy đủ những âm, dương, ngũ hành (kim, mộc, thổ, thủy, hỏa). Ở một góc độ khác, tiếng trống và vũ điệu Tắc xình biểu trưng sự phồn thực, âm dương giao hòa. Khi tiếng trống cất lên, ai nấy cảm nhận như có một luồng sinh khí, hối thúc vào cuộc. Âm hưởng tiếng trống đất của đồng bào Sán Chay ở Đồng Tâm đã không dừng lại ở một vùng sơn dã, mà vượt cánh rừng chò, ra huyện, lên tỉnh và hội nhập nền văn hóa Quốc gia.

Sự hấp dẫn của vũ điệu Tắc xình đã hút hồn những người đam mê sưu tầm, bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể. Cũng từ năm 1996, ông Bùi Quang Sơn, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Phú Lương đã cùng những cộng sự của mình tìm đến nhà nghệ nhân Vi Văn Cài; nghệ nhân Trần Văn Thảo, xóm Pháng 3, xã Phú Đô. Qua 2 nghệ nhân xóm Pháng, ông Sơn lần đường tìm về xóm Đồng Tâm, xã Tức Tranh để gặp nghệ nhân Hầu Văn Đạo, Hầu Văn Tĩnh để khảo sát, thu thập các nét cơ bản của múa Tắc xình. Khi đã có trong tay những tài liệu quý về dân ca, dân vũ Tắc xình, ông Sơn không quản thời gian, kể cả ngày nghỉ cuối tuần, thậm chí có buổi trời rét như cắn vào da thịt, ông về Đồng Tâm, đến nhà các nghệ nhân, ngồi hong tay bên bếp lửa sàn, trò chuyện, ghi chép, nảy vần, gõ nhịp rồi cùng bà con xóm Đồng Tâm đến rừng chò, vào đình, đền dâng lễ, xin phép thành hoàng, tổ tiên người Sán Chay được phục dựng, hoàn chỉnh lại các động tác của điệu múa. Chừng 3 tháng, “bước nhảy” nhuần nhuyễn, người Đồng Tâm mạnh dạn mang “trình làng” nhân các hoạt động văn nghệ quần chúng của tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn). Ngay lần đầu lên sàn diễn, vũ điệu Tắc xình mang hơi thở hồn nhiên của rừng xanh đã tạo được một ấn tượng lạ, hấp dẫn đối với giới chuyên môn và đông đảo công chúng.

Không dừng lại ở hội diễn trong tỉnh, năm 1998, người Đồng Tâm mang vũ điệu rừng xanh của dân tộc mình tham gia Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông - Bắc tại Lạng Sơn; năm 2005, vũ điệu có mặt tại Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam và tham gia giao lưu văn hóa Việt Nam - Thụy Điển; năm 2008, vũ điệu được trình diễn tại Khai mạc Liên hoan Dân ca toàn quốc; năm 2013, vũ điệu tham gia Liên hoan Dân ca - Dân vũ Việt Nam tại Hà Nội, được Ban Tổ chức trao giải A.

Ông Trần Văn Nhần (người cầm sách) cùng bà con trong xóm tập hát

lại một số làn điệu Xình ca và tiết tấu nhạc của vũ điệu Tắc xình.

Chuyện nhảy Tắc xình và hát ví Xình ca của bà con Đồng Tâm dành cho chúng tôi chảy dài như dòng suối Cái qua xóm. Tay vuốt chòm râu bạc, ông Trần Đức Nguyên nảy câu ví:

“Nhịt thau lậc lềnh nhịt thau tạy

Trí trạu kít mụng cú làng thạy

Dín tháng làng là mò sú lình

Lang là sú lình sí làng xày”

Tạm dịch:

“Mặt trời xuống núi mặt trời thấp

Con nhện chăng tơ

qua cầu thang nhà anh

Oán thán mẹ anh không lấy em

Mẹ anh lấy em thì em

cũng là vợ anh”.

Hát xong, ông thả lời: Ở xóm Đồng Tâm, người già, em nhỏ đều biết ví Xình ca, nhảy Tắc xình. Để quảng bá nét đẹp văn hóa độc đáo của dân tộc mình, Đội văn nghệ của xóm đã thường xuyên luyện tập, đi biểu diễn giao lưu với các địa phương khác và tham gia hội diễn của tỉnh, khu vực và toàn quốc. Đi đến đâu, Tắc xình và ví Xình ca cũng được người xem cổ vũ nồng nhiệt. Đó là phần thưởng lớn nhất đối với người Sán Chay Đồng Tâm rồi.

Phạm Ngọc Chuẩn 

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy