Đôi cánh của người
1.
Họ đã đi xuống lưng chừng núi. Chương ngồi trên thân cây đổ bên lòng suối, dưới chân là đám ngải cứu dại và cỏ gà, lấy harmonica ra thổi. Ấy là một bài đồng dao của Argentina, nói về mối tình không được đáp trả của người thiếu nữ. Cô nhận xét: Cũng có thể đó chưa hẳn là cuộc tình đơn phương. Chương cười, tôi hiểu.
Chương là một người đàn ông chững chạc, từng suýt bỏ dở chương trình đại học giữa chừng để chạy theo cơn sốt khởi nghiệp. May thay tôi không bị làn sóng đó nuốt chửng, Chương nói rồi dụi tắt điếu thuốc.
Bố của Chương từng làm việc ở một xưởng đóng giày, sau này bởi vì mẹ anh chuyển lên núi dạy bổ sung cho các trường nên ông quyết định xin nghỉ việc, dắt díu cả nhà lên theo. Nhà tôi ở gần chợ, cái khu chợ có ba dãy ki - ốt đấy lúc nào cũng ẩm thấp, có mùi đặc trưng lẫn âm thanh đặc trưng. Các gia đình ở đó đều là dân tứ xứ, có Phú Thọ, có Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, họ trưởng thành, kết hôn và sinh con, giống như một hệ sinh thái thu nhỏ nhạy cảm và đa nghi.
Khi còn bé, tôi từng theo đám trẻ con trong chợ leo cây tìm tổ chim, bấy giờ tôi cũng không biết chúng là chim gì, cầm lên thấy hay hay song vẫn để lại, lúc về kể cho mẹ, mẹ tôi bảo rằng thường thì lũ chim sẽ bỏ cái tổ đó mà đi, khả năng sống sót của những quả trứng đó rất thấp. Sáng sớm, mùi quẩy nóng lẫn bánh gối quện trong mùi ngây ngấy của dầu ăn ngập trong vòm không, ăn rối một chiếc quẩy mềm rồi vọt vào trường trước khi cổng đóng, sân trường hồi đó chưa lát bê tông, vào mùa xuân, cỏ non phun mầm lú nhú, ngẩng lên thấy bầu trời xanh vời vợi, bấy giờ tôi mười sáu tuổi, chợt thấy tương lai mịt mờ như sương.
Trên đỉnh núi trông xuống, rừng gợn sóng cả, lúc đi qua lòng suối cạn vẫn có thể thấy được vỏ của đám ốc mút tí hon, thịt đều bị phân huỷ, trên vỏ lấm tấm các mấu vết sần sùi, cô nhặt một con lên nhưng chúng quá nhỏ để có thể nghe được tiếng rừng.
- Tiếng rừng? – Chương nghiêng đầu nhìn cô.
- Ừ, tiếng rừng. – Cô cười, bằng cái cười hơi ngượng ngùng.
Chương từng bảo rằng nụ cười này của cô sẽ khiến người khác hiểu lầm, bởi phần đa biểu cảm mà con người thể hiện ra ngoài đều xuất phát từ nội tâm. Khi nói điều ấy, bản thân anh cũng không quá chắc chắn. Cô không phản đối, cũng không đồng ý với Chương, đáp lại: Còn một khả năng khác, rằng những biểu cảm này được xây đắp từ khi còn thơ trẻ, liên quan tới môi trường mà anh trưởng thành, rất khó để thay đổi, tôi cũng không muốn thay đổi.
Tuổi thơ cô độc, thời thiếu nữ lại lập dị chán chường, bắt đầu và kết thúc một cuộc hôn nhân chóng vánh, giống như một người bước thật chậm rãi trên một sợi dây thừng chăng ngang vực thẳm. Có đôi lúc cô cảm thấy rằng sinh mệnh sẽ cạn khô khi mình còn rất trẻ, nhưng thời gian qua đi, khát khao muốn chết và cả khát khao muốn sống của cô đều bị bào mòn, trôi dạt như đám phù du trên biển rộng.
Cô bẻ đọt mâm xôi non mới nhú, khẽ vuốt chóp lá phớt tím rồi tước vỏ, nhựa túa ra khiến đầu móng tay chuyển sang sắc xanh rồi úa thành màu thâm tạo cảm giác dinh dính, gai trên thân đọt non chưa kịp tới độ cứng cáp gập gãy dù lực ấn của cô rất nhẹ, đưa một nửa cho Chương. Vị chua, nhằn nhặn chát trên đầu lưỡi, thân non mọng nước của mâm xôi có vị nhang nhác với mầm hoa hồng, so ra, cô thích vị của thân cây mua hơn.
Đám mua ấy, Chương nói, lúc đi học, tôi và đám bạn hay đi dọc triền đồi để hái những quả mới chín. Ánh nắng gay gắt trên đỉnh đầu không ngăn được bước chân của chúng tôi bấy giờ, cứ vậy hái đầy quả dại trút tất cả vào trong nón, tách vỏ ra ăn với nhau, mồm miệng đứa nào cũng đen nhẻm.
- Hồi nhỏ lớn lên ở trên núi - Chương tiếp lời - tôi đã từng rất yêu thích những khu vực náo nhiệt, tấp nập. Suốt năm ròng chỉ ngóng hội xuân, đứng trên xích đu được dựng lên từ đêm hôm trước, đu thật mạnh, cô biết không, khi không khí lướt qua, căng chùng, tôi chợt muốn buông tay ra để xem mình có thể bay cao được tới đâu. Sau này xuống thành phố, mới nhận ra tất thảy chỉ là một kết cấu hư vinh và không bền chắc, chạm nhẹ là sụp đổ.
- Tôi chưa bao giờ hiểu được cơ chế danh lợi trước mắt này. - Cô gật đầu nhìn anh, nhoẻn miệng cười - Từ lúc còn bé, tôi đã thấy được sự liên kết giữa mình với thế giới này rất mong manh, không yêu thích điều gì quá sâu sắc và lãnh đạm với người khác.
Cô ném vỏ mầm mâm xôi vào trong bụi, rút khăn tay lau mặt và cổ, muỗi vởn quanh, chốc chốc đậu vào hai bên mắt cá chân khiến người ta cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu.
2.
Họ chuyền tay nhau điếu thuốc, hơi ẩm thấm đẫm trong vòm không khiến cho người ta cũng cảm thấy toàn thân đẫm nước, như thể chan hoà vào khu rừng và chỉ cần một hạt mầm rơi xuống cánh tay thôi là có thể bén rễ. Chương ngẩng đầu lên nhìn bầu trời thăm thẳm, ngẫm nghĩ điều gì đó rồi nói:
- Cô có nhớ hồi tôi đi làm tin về dân săn lan rừng không?
Cô gật đầu, đùa:
- Ừ, cái lần anh suýt chết.
Chương không nhìn cô, nói tiếp:
- Có một người cùng đội thường xuyên nói với tôi về những cơn sóng rừng. Ở những ngọn núi hiếm gót người xâm lấn, nhìn từ trên đỉnh xuống có thể thấy rợp ngợp mầm xanh. Một khi gió thổi qua, hàng vạn chiếc lá mà cô tưởng rằng yên bình ấy rờn lên, gợn cuộn không điểm dừng, thảy chỉ đem tới cảm giác: kinh hoàng. Như thể nếu lúc ấy đặt chân đi xuống, cô sẽ bị nuốt chửng, rồi chồi non đâm ra từ xác thân yếu ớt đương lẫn hoà vào lòng đất, trở thành một phần của khu rừng.
Có thể tất cả những người mất tích trong rừng đều đã trở thành cây?, Chương tự hỏi rồi tự đáp, ai mà rõ được cơ chứ? Ngay cả lời nói giữa người với người còn chẳng thể hiểu cho rốt ráo, anh không tin vào việc rằng bất cứ điều gì trên đời này đều có thể giải thích tường tận.
Cô nhặt cỏ dính trên gấu quần:
- Một kiểu Ango(*)?
Chương lắc đầu:
- Không hẳn, có lẽ đấy là trải nghiệm của riêng y mà thôi.
Y chưa bao giờ đọc bất cứ một cuốn sách văn học nào, Chương dập tàn thuốc và bỏ vào gạt tàn mini, trong túi dết lúc nào cũng có một cuốn sổ tay và một tập sách dường như là bách khoa toàn thư về thực vật đầy chú thích màu xanh lẫn đỏ. Tôi chưa từng nhìn thấy cuốn sách đó bao giờ, có vẻ như đã không còn tái bản nữa. Ấy là một người gày gò, có lẽ bởi y quá cao nên vẻ bề ngoài của y mang lại sự bất an cho người đối diện. Đôi lúc nói chuyện, tôi có ảo giác rằng y đang tan biến. Quả thực là vậy, y đã biến mất, không một ai biết y đi đâu, đến lúc đó tôi mới nhận ra mình không hề hiểu về người đàn ông này, thậm chí tôi còn nghĩ, liệu y có phải là ảo ảnh do mình dệt nên chăng?
- Sau đó thì sao? - Cô tò mò.
Chương mỉm cười, nhún vai:
- Tôi chuẩn bị tìm kiếm y.
Lạ đúng không? Chương nhướng mày, mỗi lần gặp nhau tôi chỉ gọi y là “này, cậu gì ơi”. Không hề ác ý, anh bảo, tôi từng muốn hỏi tên y, song hễ nhìn thấy gương mặt ấy là tôi lại quên mất. Đấy là người đàn ông đẹp, cái tôi nói đẹp ở đây không phải vẻ đẹp rắn rỏi thường thấy mà có nét gì đó thanh tú, xương của y khá nhỏ, tôi từng trêu rằng y có thể lăn lộn trong giới nghệ sĩ đấy. Bấy giờ, y chớp mắt nhìn tôi, chỉ mỉm cười. Dù đã đi nhiều nơi và gặp nhiều người, nhưng thú thực, hiếm khi nào lại có một người hiền lành như vậy.
Cô lắng nghe Chương nói, đốt thêm một điếu thuốc, rít một hơi dài, một lúc sau mới nói:
- Tôi luôn thích những người đàn ông đẹp. Nếu được gặp y thì tốt biết bao.
- Ừ. – Chương bật cười. – Y tỉ mỉ, dịu dàng. Có dạo chúng tôi rủ nhau đi nghỉ ở trên một bản nọ, tiện xem có thể viết được cái gì hay ho không.
Hôm ấy đang độ thu phân, cảnh sắc rất đẹp, Chương thong thả kể lại, trời vẫn chưa mát hẳn nhưng đã thấy những cơn gió thu thảng hoặc thổi qua, càng lên cao càng lạnh. Chúng tôi có năm người, ở nhờ một nhà dân ngay đầu bản, nhà sàn, chất gỗ rất tốt. Trong khi đi loanh quanh tìm nơi vãn cảnh, không khó để nhận ra ở đó thiếu vắng đàn ông.
- Hẳn là tình trạng chung. - Cô cười bảo - Quê tôi bây giờ cũng thế. Có dạo tôi đã thử đi dọc từ đầu phố tới cuối phố để xem có thể gặp một gương mặt quen thuộc nào không, nhưng chẳng hề có một ai, nắng xói trên đỉnh đầu và hơi muối thì ngập trong vòm trời, cứ thế nhìn quãng đường vắng vẻ một lúc lâu, tôi mới quyết định trở gót về nhà.
Chương gật đầu, như nhớ lại điều gì mà vô thức mỉm cười:
- Y hay đứng xem những người phụ nữ trong bản dệt vải, chắc bởi vẻ ngoài hiền lành tuấn tú, người ta còn kéo y lại để dạy nghề cho. Lúc đấy, một anh bạn tôi, trêu y rằng liệu có muốn ở lại đây làm rể không, y chỉ cúi xuống cười rồi lắc đầu. Y khéo tay, dệt được một vuông vải nhỏ, tặng cả cho tôi. Chúng tôi vào núi, như thể bị vẫy gọi. Y khẽ khàng nói về những loài thực vật cho chúng tôi nghe, thỉnh thoảng tần ngần trước một nhành cây rồi hái một chiếc lá và ép vào cuốn sổ tay bên người. Y nói ít, ăn cũng ít, có lẽ đấy là nguyên do mà y gầy như thế.
Cô mở chiếc hộp nhựa đựng thực phẩm mình mang theo, bên trong có mấy lát khoai lang, hỏi:
- Anh ăn không?
Chương lắc đầu, nhét tóp thuốc vào gạt tàn, vì sắp đầy nên phải lựa mãi mới đóng được nắp. Anh mỉm cười:
- Y không hút thuốc. Trong bình hay có nước đun từ một loài lá cây hoặc hoa cỏ gì đó, khi là sen, khi là ổi, hoặc hoa cúc. Y bảo để thanh nhiệt. Tôi biết y không chịu được mùi thuốc lá, nhưng y không cằn nhằn hay tỏ ra khó chịu gì khi tôi hút, chỉ lẳng lặng rót ra nắp phích cho tôi một ít nước trà, dặn tôi uống cho cổ họng đỡ khó chịu.
Tính chất công việc khiến cho thần kinh của tôi ít khi nào được thả lỏng, có những thời điểm ngồi viết liên tục suốt mấy ngày, cà phê thường xuyên được thay mới, thuốc lá cũng vậy, nhưng hút nhiều sẽ thấy họng khô khốc đắng nghét, có dạo tôi bị viêm phổi nặng, bác sĩ cũng cảnh báo đôi lần, nhưng không bỏ được, chỉ có thể hạn chế mà thôi, Chương bảo, cũng lạ, lúc uống hai ba ngụm trà đó, tôi bỗng thấy đầu óc nhẹ nhõm hẳn, ấy là một thứ nước nhàn nhạt dễ chịu thoảng hương thơm nhẹ, không rõ là của loại lá hay hoa gì. Y là kiểu người như vậy, ít nói nhưng năng quan sát, chủ động quan tâm tới người khác.
Chương tiếp lời:
- Tôi có linh cảm, rằng y đã chẳng còn người thân nào trên đời nữa.
Chương thở dài, ngưng một chút như nhớ lại điều gì đó. Cô để cho anh sắp xếp những gì mình đang nghĩ bởi ngôn từ là thứ dễ gây hiểu lầm, hầu hết sự cố trong đời đều từ đó mà ra, sau năm hai mươi mốt tuổi, cô đã dần phải chọn lọc mọi thứ trước khi nói và viết, giấu hết gai sắc của bản thân, rốt cuộc chẳng chịu được cuộc sống gò bó đấy. Cô nhận ra rằng dẫu cố gắng đến đâu, người với người khó mà thấu hiểu lẫn nhau. Chương cúi đầu cười:
- Nghỉ ngơi trên bản độ mươi hôm, chúng tôi định bụng xuất phát về thành phố. Song y bỗng bảo, rằng mình muốn đi đến ngọn núi phía sau bản, vì y thấy ở đó có một cây hoa dẻ. Nhờ vậy mà chúng tôi phát hiện dấu vết của một nhóm săn lan rừng trái phép, thần kỳ nhỉ, bây giờ nhắc lại tôi cũng thấy nó thần kỳ tới mức phi lí. Vết sẹo này, cô thấy không?
Chương vạch cổ áo ra, vẫn cười:
- Do vụ đó mà ra. Nhưng lúc ấy may có y kéo tôi lăn ra chỗ khác nên đỡ được phần nào, nếu không bây giờ chắc tôi đã đầu thai chuyển thế rồi.
Và, giọng anh mỏng như tơ, buông một câu:
- Khi tỉnh dậy, tôi không thấy y đâu nữa…
Cô mở chai rượu nhỏ mình mang theo, nhấp một ngụm, hơi nồng nàn quện với lá nguyệt quế, một chút muối biển ủ bên trong khiến cô nghĩ về người đàn ông mình từng gặp ở Lagos, đến nay đã quên mặt, chỉ còn nhớ mùi hương và nụ hôn vội vào tối ở bến cảng. Rượu sực lên, làm ấm cơ thể, cô đưa chai cho Chương. Anh nuốt một ngụm song vẫn chẳng thể giấu được giọng nói đương run lên của mình:
- Y biến mất, cứ như chưa từng tồn tại, cứ như chỉ có vết thương trên người tôi là minh chứng duy nhất cho sự tồn tại ấy.
Trí nhớ con người đôi khi bị sai lệch, theo thời gian, các chi tiết trong đời họ dần dần mờ nhoà, chẳng mấy chuyện được có thể lưu giữ chân xác. Cô nhận ra nơi câu chuyện của Chương có một vài lỗ hổng, song cô thông cảm cho điều đó. Chương ngẩng lên, nhìn bầu trời thăm thẳm với từng đụn mây vảy cá trên cao:
- Lúc ấy tôi bỗng nhiên sợ hãi, lẩn thẩn nghĩ những chuyện hoang đường, cứ như đã phát điên, tôi vội vàng kiểm tra lại từng điều mà chúng tôi đã nói với nhau, từng mẩu tin nhắn. Một người bạn đã đưa cho tôi cuốn sổ tay của y, bảo rằng y bỏ đi gấp sau một cuộc điện thoại, dặn gửi lại cho tôi vật này, lúc ấy tôi mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Chẳng rõ là việc gì có thể khiến y thất thố đến vậy, tôi chợt ghen tị. Trên cuốn sổ tay ấy có địa chỉ của y ở thành phố. Khó hiểu ở chỗ, y không trả lời tin nhắn hay điện thoại của tôi. Có lúc lẩn thẩn tôi còn nghĩ y chẳng phải là con người.
Cô cất chai rượu vào người, phủi tay:
- Nên sau chuyến này, anh sẽ đi tìm y?
Tôi muốn hỏi tên y, Chương bần thần, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy tên của một người quan trọng đến thế, tôi muốn được chiêm ngưỡng những cơn sóng rừng mà y từng chiêm ngưỡng, muốn đi tới nơi mà y từng đi, muốn tìm hiểu xem vì sao y lại lựa chọn sống cuộc sống bên lề trong một thế giới điên cuồng trải phẳng ra trước mắt người khác.
3.
Chương vờn chiếc harmonica trong tay, đây là món quà mà cô và anh được tặng khi rong ruổi cùng nhau, trên thân kèn có khắc ký hiệu viết tắt tên của chủ nhân cũ: J.K, một ký hiệu thường gặp. Thậm chí cô còn cảm thấy rằng mình đã bắt gặp nó trong một cuốn sách nào đó. Đọc và quên đi, mắt lướt qua hàng hàng con chữ song đầu lại nghĩ về chuyện khác, rồi lại phải trở ngược để đọc lại. Cô cười:
- Hồi làm nghiên cứu, tôi cảm thấy việc đọc thật nhọc nhằn và vất vả.
- Việc đọc lúc nào cũng vất vả. - Chương hấp háy mắt. - Thêm một khúc nữa chứ? Bài này do tôi tự phổ ra trong lúc rong ruổi ở Bhutan.
Trong chuyến đi đó, anh mang về một hộp trầm hương bản địa, hai dải khăn với hoa văn và màu sắc sặc sỡ, thu thập được một số thông tin liên quan tới kỳ nam - thứ hương liệu hiếm từng suýt khiến anh bỏ mạng hồi còn trẻ. Chẳng bởi tiền bạc gì dù nhuận bút của bài báo đó khá cao, Chương nghiêng đầu, đối với tôi bấy giờ mà nói thì sự mạo hiểm trong đó thú vị hơn nhiều.
Cô lặng lẽ nhìn anh, quan sát người đàn ông từng kề vai sát cánh trên nhiều vùng đất với mình. Có lẽ đó không phải tình yêu, cô cười, đấy là một thứ gì đó hơn thế, tôi đồ rằng cảm xúc của Chương với y cũng vậy mà thôi. Đây là một dạng tình cảm có thể vào sinh ra tử với nhau, chẳng hề liên quan tới thân xác hay dục vọng cá nhân.
Cô nhớ đêm ở Buenos Aires, họ ăn trong quán ăn nhỏ và đông đúc, bàn ghế bằng gỗ được phủ một lớp sơn màu xanh da trời, đối lập với những bánh lái tàu quấn trong các sợi thừng được trang trí trên tường. Không mấy đặc sắc nhưng có thể gây ấn tượng với thực khách, Chương nhún vai, phần nào nó cũng giúp cho trí tưởng tượng của người xem vươn xa hơn, ra tới biển rộng. Cô mỉm cười chạm li với anh. Ở góc cửa có một kệ sách nhỏ được làm theo lối tre đan, chủ quán sưu tầm từ một người bạn sống ở Việt Nam.
“Anh ta là người Thái, sau này sang Việt Nam làm việc rồi sinh sống ở đó luôn, mới kết hôn năm ngoái” - Chủ quán, với bộ râu mới cắt tỉa theo lối Trung Đông của mình, hồn hậu nói với họ, Chương đồ rằng ông ta đã kể câu chuyện này với hầu hết các thực khách tới đây. Không tỏ ra ngạc nhiên hay hiếu kỳ, anh lắng nghe câu chuyện của mọi người rồi đặt nó ở nguyên vị trí nó nên có, hiếm khi kể lại những điều mắt thấy tai nghe cho người khác, giữ hết thảy cho riêng mình, tựa như một miếng bọt biển thấm hút hết mọi hình ảnh, cảm xúc, rồi vỡ ra trên nhật ký hành trình mà bản thân ghi chép. Chương cười:
- Thảng hoặc bắt gặp bài viết của mình trên một vài tạp chí du lịch, tôi tưởng như chúng do một người xa lạ viết ra, sau khi dấu chấm câu cuối cùng được đặt xuống, tôi trở thành tha nhân.
Họ đi xuống núi.
Chương cất cuốn sổ tay vào trong ba lô, anh không kể với cô, rằng mình đã mua một cuốn sổ khác, làm những điều như y từng làm, khác ở chỗ anh ghi chép về những loài chim mình từng gặp.
Trang đầu tiên, viết về y, anh bảo nếu y được sinh ra là một loài chim, vậy sẽ là cánh chim cô độc trên thế gian này. Y chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay với màu lông xanh thẫm điểm vàng kim, được bắt gặp vào một chiều thu khi đương mổ một quả dại chín mọng, sau lúc phát hiện ánh mắt của người đang quan sát mình, y lẳng lặng nhìn lại rồi tung cánh, mất hút trên vòm không vòi vọi lặng tăm mây.
-------
(*) Tức Sakaguchi Ango, nhà văn thuộc Vô Lại Phái. Ông có một truyện ngắn miêu tả nỗi sợ trước rừng anh đào nở rộ, thực chất để nói về sự cô đơn của con người.
Truyện ngắn. Phạm Giai Quỳnh
1 đã tặng
1
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...