
Góc biếm họa số 4 (2025)

Cấp sắc là một nghi lễ truyền thống đặc biệt quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của các chàng trai dân tộc Dao. Đồng bào quan niệm rằng người nào trải qua nghi lễ cấp sắc mới được coi là người lớn, người có tâm, có đức, biết phân biệt phải trái, có đủ tư cách thực hiện các nghi lễ cúng bái trong gia đình và khi chết linh hồn mới được trở về đoàn tụ với tổ tiên. Trong nghi lễ cấp sắc, tranh thờ là một phần không thể thiếu, mang ý nghĩa tâm linh quan trọng và thể hiện đậm nét văn hóa truyền thống.
Lễ cấp sắc của người Dao có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo từng địa phương: Người Dao Quần chẹt ở Thái Nguyên và Tuyên Quang gọi lễ cấp sắc là “chẩu đàng”. Người Dao Quần trắng ở Tuyên Quang gọi lễ cấp sắc là “chay xấy” (lễ thụ đèn, lên đèn). Người Dao Tiền ở Hòa Bình, người Dao Họ ở Lào Cai gọi lễ cấp sắc là "lập tỉnh", "lập tịch" hay "lập tính" (làm cho trong sạch). Người Dao Thanh Y ở Quảng Ninh gọi là lễ “nhập họ” vì mục đích của nghi lễ là đặt tên âm (phạt búa) - tên mới, nhằm công nhận người thụ lễ chính thức được ghi tên vào trong gia phả của dòng họ. Người Dao đỏ, Dao Áo dài ở Lào Cai, Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh gọi lễ cấp sắc là "quá tang" hay "qua tang" (lễ thụ đèn)…
Lễ cấp sắc thường được tổ chức vào những tháng cuối năm hoặc đầu năm, kéo dài từ 2 đến 3 ngày. Trong lễ cấp sắc có một nghi lễ quan trọng là thầy cúng cấp cho người thụ lễ một bản đạo sắc viết bằng chữ Nôm Dao, trong đó ghi lai lịch của người thụ lễ, lí do thụ lễ và các điều răn dạy... Đạo sắc được coi là bằng chứng cho phép người thụ lễ được thực hiện các nghi lễ cúng bái và có vị trí trong xã hội. Tuổi của người được cấp sắc cũng có sự quy định khác nhau giữa các nhóm Dao. Người được cấp sắc ở nhóm Dao Tiền ở Bắc Kạn, Hòa Bình từ 10 - 18 tuổi. Người Dao Họ ở Lào Cai quy định người được cấp sắc từ 17 tuổi trở lên. Người Dao đỏ ở Hà Giang quy định từ 12 trở lên đến 30 tuổi hoặc hơn một chút. Người Dao Áo Dài ở Hà Giang quy định người được cấp sắc từ 12 - 20 tuổi. Người Dao Quần trắng ở Tuyên Quang không cấp sắc cho người dưới 10 tuổi. Người Dao ở Tuyên Quang, Quảng Ninh cấp sắc cho trẻ em từ 8 tuổi, nếu em nào hay ốm đau, bệnh tật thì có thể làm từ lúc 4 tuổi. Nhóm Dao Quần chẹt ở Đại Từ, Thái Nguyên, và ở Sơn Dương, Tuyên Quang đặc biệt chỉ làm lễ cấp sắc cho người đã có vợ.
Ngoài ra, làm lễ cấp sắc, đồng bào cũng có một số quy định: Theo thứ tự trong gia đình, người Anh sẽ làm lễ cấp sắc trước, em làm sau. Nếu gia đình có người đã mất mà chưa được làm lễ cấp sắc thì con cháu sẽ phải làm lễ cấp sắc cho người đã mất, trước khi làm lễ cấp sắc cho mình. Tổ chức nghi lễ cấp sắc là một việc hệ trọng trong đời người dân tộc Dao, đòi hỏi phải chuẩn bị công phu các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng,...
Lễ cấp sắc là nơi sinh hoạt văn hóa dân gian, phản ánh tâm tư, tình cảm, tín ngưỡng sâu đậm của dân tộc Dao. Trong nghi lễ cấp sắc, tranh thờ là một phần không thể thiếu, mang ý nghĩa tâm linh quan trọng và thể hiện đậm nét văn hóa truyền thống. Những bức tranh này thường được sử dụng để trang trí không gian thờ cúng trong nghi lễ cấp sắc, giúp kết nối giữa con người với thần linh và tổ tiên. Những quan niệm của con người từ thuở sơ khai về vũ trụ và triết lý về mối quan hệ giữa cuộc sống của con người với vạn vật trong vũ trụ được thể hiện rất đậm nét qua nội dung của tranh. Trong suốt quá trình diễn ra nghi lễ, các bức tranh cúng thường được treo kín trên tường nhà. Điều đó đã tạo được sức lan tỏa trong giáo dục con người nâng cao nhận thức về thế giới quan, về vũ trụ và mối quan hệ chặt chẽ giữa vạn vật hữu linh. Nó cũng mang lại niềm tin cho con người vào thế giới tự nhiên để lan tỏa giá trị hướng thiện của con người.
Trong các công việc chuẩn bị cho lễ cấp sắc, việc chuẩn bị tranh thờ tương đối phức tạp vì có rất ít gia đình có khả năng lo đủ được số lượng tranh thờ theo yêu cầu, vì loại tranh này phải đi thuê vẽ rất tốn kém và công phu. Vì vậy, khi các thầy cúng được mời thực hiện nghi lễ, bao giờ cũng phải mang theo bộ tranh của họ đi cùng để sử dụng cùng với số tranh của gia chủ. Thông thường, bộ tranh thờ dùng trong nghi lễ cấp sắc đầy đủ gồm có 24 bức to nhỏ khác nhau, biểu thị các vị thần, phật uy linh từ trên thiên đình đến các vị thần linh ở âm phủ. 24 bức tranh đó bao gồm: Tờ tranh vẽ công vụ đưa công văn bằng đường bộ và đường rừng (hình vẽ người cưỡi ngựa và cưỡi hổ); Tranh Lý Hành Sư; Tranh Thiên tướng; Tranh Thầy vậy (của thầy); Tranh Thầy vậy (của chủ nhà); Tranh Thập điện Minh Vương; Tranh Dương phủ địa phủ; Tranh Ngọc Hoàng Thánh chủ; Tranh Thái Thanh; Tranh Thượng Thanh; Tranh Ngọc Thanh; Tranh Ngọc Hoàng Thánh chủ; Tranh Thiên phủ Thủy phủ; Tranh Trồng tàn (của thầy); Tranh Trồng tàn (của gia chủ) được treo cùng bàn thờ; Tranh Tam thanh nhỏ được treo trong bàn thờ; Tranh Tổ tiên được treo trong bàn thờ; Tranh Hòi phan (của chủ nhà); Tranh Hòi phan (của thầy); Tranh Khì liền; Tranh Tề thiên đại thánh; Tranh Trương Thiên sư; Tranh Công vụ nhà trời vẽ người cưỡi rồng đi đường thủy, ngưỡi cưỡi chim đại bàng đi đường không; Tranh cầu.
Trước khi sử dụng bộ tranh thờ trong nghi lễ cấp sắc, đồng bào phải thực hiện nghi lễ treo tranh (Thả tranh) và sẽ do thầy Sáu (Trò tàn) đảm nhận. Việc treo tranh cũng phải theo quy định bắt buộc. Đầu tiên, treo tranh Tam Thanh ở giữa. Hai bên là tranh vẽ Ngọc Hoàng thánh đế, Ngọc Hoàng thánh chủ, tiếp theo là treo tranh về tứ phủ công đồng, tứ phủ công tào, thập diện minh vương, tranh hành sư, thiên tướng, tranh vẽ về các vị thần đưa tin tức của nhà trời bằng các phương tiện: đường thủy, đường bộ, đường rừng, đường không. Cuối cùng là tranh cầu đặt ngay bên dưới các bức tranh trên gồm 120 binh mã cầm các loại binh khí hộ tống đám cấp sắc.
Trong các bức tranh trên, bộ tranh Tam Thanh là quý nhất, thể hiện các vị thần linh ở cõi Thượng Nguyên. Bộ tranh gồm có 3 bức, được treo chính giữa đàn lễ. Bức tranh treo cao hơn là ông Nguyên thủy Thiên tôn - Thượng Thanh, tiếng Dao Quần Chẹt gọi là “Ruồn lỵ”, tượng trưng cho nguồn gốc, khởi nguồn của vũ trụ, ông có quyền năng diệt bạo trừ gian và cứu khổ, cứu nạn cho dân chúng. Hai bức bên cạnh là Ngọc Thanh Cung (ngôi vị thứ 2 - Linh bảo thiên tôn) tiếng Dao gọi là “Lềnh pú” là người lập miếu thờ Phật tổ Như Lai được người đời tôn sung cúng bái và Thái Thanh Cung (hay còn gọi Thái Thượng lão quân, ngôi vị thứ 3) là người đưa ra pháp luật và thi hành pháp luật ở trần gian. Đây là 2 vị thần tượng trưng cho sự điều hòa âm dương. Ba bức tranh này luôn được treo gần nhau, không tách rời.
Bức tranh Tam Thanh nhỏ treo ở vị trí bàn thờ tổ tiên vẽ 3 ông Tam Thanh với 9 tầng người. Tầng bên dưới là hình ảnh Bàn Vương (thủy tổ của người Dao) cùng với tổ tiên dòng họ. Theo quan niệm của dân tộc Dao, hai bộ tranh Tam Thanh này rất linh thiêng, người khác không được tùy tiện mở ra xem. Khi vẽ tranh phải mổ lợn để cúng. Nếu tranh rách, cũ, không được đem đốt, phải cất cẩn thận.
Bộ tranh Ngọc Hoàng thánh chủ “Nhụa hùng linh chiếu” là người trị vì công việc nội chính của trời và tranh Ngọc Hoàng Thánh đế “Nhụa hùng linh tẩy” là ngôi chí tôn bao trùm 3 cõi: Trần gian, mặt đất và âm phủ, là người trực tiếp trị vì trần gian. Phía dưới tranh vẽ các bậc tinh quân thiên vương, thiên tướng đang sẵn sàng nhận lệnh của các bậc thiên tôn. Căn cứ tội trạng mà giáng phúc hay gieo tai họa.
Bộ tranh tứ phủ công đồng vẽ 3 cõi: Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Bộ tranh gồm 2 bức: Bức 1 vẽ Thiên phủ địa phủ (Thin pấu, tậy pấu); Bức thứ 2 vẽ Dương phủ thoải phủ (Dàng can lủi pấu). Hai bức tranh vẽ về tòa án của tứ phủ công đồng, chuyên xem xét các tội trạng của con người ở trần gian mà phân định tội lỗi và các hình phạt.
Tờ tranh thập điện Minh Vương (Chiệp tin mềng hùng) vẽ các vị thần linh ở cõi hạ Nguyên đang thực hiện vụ của tứ phủ công đồng, thực hiện các hình phạt: cưa người, cho cối giã người, cho leo cầu kiều.
Tranh Thiên tướng (Llủi) vẽ vị thần nhà trời mang đầy uy danh, mặt đỏ thực hiện nhiệm vụ của Ngọc Hoàng là trị tội ma quỷ và ác thú.
Tranh Tề thiên đại thánh “Llủi” với gương mặt đen, dữ tợn có nhiệm vụ điều hành ngũ lôi thiên tướng, trừ ma diệt quái.
Tranh Lý Thiên Sư (Lây liền lêêy) vẽ quan văn thuộc hộ pháp đứng gác bên trong cửa điện Tam Bảo.
Tranh Trương Thiên Sư (Chang liền llây) vẽ quan võ thuộc hộ pháp, đứng gác ngoài cửa điện Tam Bảo.
Tranh Khì Liền vẽ hai vị thần linh cưỡi rồng và cưỡi ngựa cùng một số quân thần.
Tranh Tam thanh nhỏ “Chiêm tẩy” vẽ 3 ông Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh cùng chung một bức, treo trong bàn thờ tam cấp.
Tranh tổ tiên “Sanh hoàng” cũng được treo bên trong bàn thờ tam cấp, bên cạnh tranh Tam thanh nhỏ.
Hai bức tranh vẽ công vụ của Tứ phủ công tào (Phi thin tầu sự công trồ), vị thần đưa công văn của nhà trời bằng đường bộ, đường rừng, đường biển và đường hàng không.
Tranh cầu thường mô tả các vị thần, tổ tiên của người Dao hoặc những hình tượng biểu trưng cho sự che chở và dẫn dắt của thần linh trong nghi lễ cấp sắc. Các hình ảnh liên quan đến hành trình cầu cúng, nơi thầy cúng (thầy Tào) kết nối với thế giới thần linh để xin phép và ban phước lành cho người được cấp sắc. Các họa tiết hoặc hình ảnh trong tranh cầu mang tính tượng trưng cao, như các linh vật, cây cầu, ngọn núi, dòng nước, thể hiện hành trình tâm linh vượt qua thử thách để đạt tới sự giác ngộ và trưởng thành.
Hai bộ tranh Hành Sư (Hành llây) mỗi bộ 3 tờ. Tờ thứ nhất gọi là Thầy Vậy, tờ thứ hai gọi là Trồng Tần, tờ thứ ba gọi là Hòi Phan/Đại Phan.
Trong quá trình sử dụng, các thầy Tào đã đề ra một số quy tắc nhất định để bảo vệ tính linh thiêng của bộ tranh thờ như sau khi cúng lễ, thầy Tào phải làm lễ cất tranh (thu hồi âm binh thần tướng trở lại trú ngụ trong tranh, rồi cuộn lại cất vào chỗ kín, bảo quản cẩn thận, thông thường được cất ở khu vực bàn thờ Tổ sư trong gia đình thầy Tào). Nếu không làm đủ tất cả các nghi thức trong các nghi lễ trọng đại thì không được mở tranh vì họ cho rằng nếu không làm đầy đủ các bước thì âm binh ở trong tranh sẽ tràn ra ngoài và gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người đời. Thầy Tào nếu mất đi, có thể truyền lại tranh cho con hoặc cháu sẽ kế nghiệp làm thầy Tào. Nếu thầy Tào không có người kế nghiệp thì họ hàng sẽ phải cất giấu tranh vào hang sâu để tranh tự hủy, về sau, hang đó trở thành hang thiêng và sẽ không ai dám vào hang đó. Nếu mời thợ đến nhà thầy Tào vẽ tranh thì chỉ có nam giới mới được ra vào phục vụ, nữ giới không được bén mảng vì sợ làm ảnh hưởng đến sự linh thiêng của bức tranh.
Bộ tranh thờ dùng trong nghi lễ cấp sắc của dân tộc Dao mang tính nhân văn rất cao, đồng thời cũng mang tính hiện thực sâu sắc được thần linh hóa trong một cuộc sống khác của vũ trụ ngoài cuộc sống thực. Những bức tranh thờ này không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng trong nghi lễ mà còn là biểu tượng của sự gắn kết giữa truyền thống văn hóa, tâm linh và đời sống cộng đồng người Dao.
Đoàn Thanh Huế
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...