Cõi người trong cảm thức Lê Minh Khuê qua sáng tác thời hậu chiến
1. Lê Minh Khuê là cây bút trưởng thành từ trong kháng chiến chống Mỹ. Sau 1975, đặc biệt ở thời kỳ đổi mới, Lê Minh Khuê vẫn tràn đầy nội lực, rốt ráo đổi mới tư duy nghệ thuật, mang đến cho bạn đọc nhiều trang văn thấm đượm tình đời. Nhiều tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê đã được xuất bản trong và ngoài nước: Một chiều xa thành phố (tập truyện, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1986), Tôi đã không quên (truyện vừa, Nhà xuất bản Công An 1991, tái bản tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2004). Bi kịch nhỏ (tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993), Lê Minh Khuê truyện ngắn (tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1994), Trong làn gió heo may (tập truyện, Nhà xuất bản Văn Học 1999), Màu xanh man trá (tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2003), Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa (tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ 2002), Một mình qua đường (tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2006), Những ngôi sao, Trái đất, dòng sông (tập truyện, Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2008), Nhiệt đới gió mùa (tập truyện, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012), The Stars, The Earth, The River (tập truyện, Nhà xuất bản Cubstone Press, Mỹ, 1996), Monsunens sista regn (tập truyện, Nhà xuất bản Tranan, Thụy Điển, 2008), Fragile come un raggio di sole (tập truyện, Nhà xuất bản O barra O, Ý, 2010), Kleine Tragödien (tập truyện, Nhà xuất bản Mitteldeutscher, Đức, 2011), Làn gió chảy qua (tập truyện, Nhà xuất bản Trẻ, 2016)... Với những cống hiến không ngừng của mình, Lê Minh Khuê được bạn đọc trân trọng đánh giá là “ngòi bút có sức bền” và trở thành một trong số những nữ nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đương đại.
Đọc truyện ngắn của Lê Minh Khuê, có thể nhận thấy ngay từ nhan đề của truyện đã gợi cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị, hấp dẫn về cuộc sống, con người trong cõi nhân sinh. Đó là những câu chuyện mà ở đó ẩn chứa bao buồn vui của Cõi Người nơi trần thế với đủ cả hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục mà mỗi phận số là một chứng nhân như: Bước hụt, Ga xép, Làng xi măng, Đồng đô la vĩ đại, Ký sự những mảnh đời trong ngõ, Một đời, Anh lính Tô-ny D, Những kẻ chờ sung, Ngỗng non, Mong manh như là tia nắng, Bến tàu mùa đông, Thân phận cu ly, Đồng tiền có màu xanh huyền ảo, Sân gôn, Thầy giáo dạy triết, Nhiệt đới gió mùa, Xe Cam ry ba chấm, Trên đường đê, Lãng mạn nửa mùa, Ngày còn dài, Ráp Việt, Một mình, Màu xanh man trá, Máu hồ, Biển mịt mờ, Thằn lằn, Những người đàn bà...
Không viết về những gì xa lạ với cuộc sống con người, Lê Minh Khuê đã tập trung tái hiện một Cõi Người thời hậu chiến đầy phức tạp với đủ kiểu dạng thức nhân vật thuộc các tầng lớp xã hội, với nhiều số phận và tính cách khác nhau. Truyện ngắn của Lê Minh Khuê như những lời “đối thoại” nhẹ nhàng về những chuyện đời thường đang diễn ra: Đó là sự rạn vỡ của các mối quan hệ giữa con người với con người trong gia đình và xã hội, ở nhiều môi trường, hoàn cảnh, tình huống...
Sau chiến tranh, trở về với cuộc mưu sinh, con người đứng trước nhiều thử thách cám dỗ mới, cho nên những tình cảm thiêng liêng nhất từ trong các mối quan hệ gia đình như cha - con, anh chị em ruột thịt, bác cháu đến tình thầy - trò, tình yêu lứa đôi... cũng bị bào mòn, hủy diệt bởi đồng tiền và những thứ vật chất tầm thường; Đó còn là trạng thái cô đơn với những âu lo, khắc khoải của con người trong một xã hội sau chiến tranh bề bộn với nhiều điều bất ổn, với những nghịch lý buộc con người phải lựa chọn mà sự lựa chọn nào cũng dẫn đến bi kịch… Đây cũng chính là những thông điệp hiện sinh sâu sắc mà Lê Minh Khuê thức nhận cho bạn đọc trước cạm bẫy của cái ác, cái xấu, cái giả dối, trí trá mà nếu không cảnh giác với nó con người sẽ rơi vào hố thẳm của sự tha hóa và vong thân…
Song, dù viết về những chuyện quen thuộc đời thường nhưng ngòi bút Lê Minh Khuê luôn có cái nhìn tinh tế, đa diện, linh hoạt nhiều chiều với những phát hiện sâu sắc, mới lạ về cõi nhân sinh trong sự chuyển động không ngừng của nó; chính vì lẽ đó Cõi người trong cảm thức của Lê Minh Khuê thời hậu chiến luôn mang đến những day dứt, ám ảnh khôn nguôi, những ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm cho độc giả khi tiếp nhận tác phẩm - và đây cũng chính điều đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của truyện ngắn Lê Minh Khuê thời kỳ đổi mới.
2. Sau 1975, cuộc sống bình thường trở lại nhưng suốt một thời gian dài, khắp dải đất hình chữ S, những vết thương bởi chiến tranh gây vẫn nhức nhối khôn nguôi. Bức tranh hậu chiến của dân tộc luôn phải gồng mình hứng chịu những mất mát, đau khổ hiện lên qua các câu chuyện của Lê Minh Khuê, bạn đọc hiểu rằng ở Việt Nam sau cuộc chiến, việc xây dựng lại cuộc sống không dễ như xây lại những con đường bị chiến tranh tàn phá. Đó là sự tàn phá khủng khiếp không chỉ đơn thuần ở bề mặt vật chất, mà còn trong toàn bộ đời sống tinh thần, văn hoá dân tộc. Di chứng chiến tranh để lại dai dẳng, sức công phá của nó lan tỏa cả ở bề rộng lẫn chiều sâu.
Đọc tác phẩm của Lê Minh Khuê, bạn đọc thường bắt gặp một không gian sống khi chật hẹp, tối tăm, lúc lại khép kín hoặc lọt thỏm trong môi trường xô bồ, ô nhiễm: “Cái ngõ hôi hám tối tăm ngày xưa người lương thiện ít dám đi qua vào ban đêm (...) Ở tít sâu trong ngõ là căn nhà hai tầng lầu của thằng Quýt” (Ký sự những mảnh đời trong ngõ); “Cả nhà chui vào cái hốc chưa đầy chục mét vuông, không cửa sổ, một bên là khu vệ sinh công cộng, mà đã là của công thì không thiếu gì mùi. Một bên là cái sân thượng giờ đây người ta tràn ra che cót để ở. Mỗi cái hốc bốn bên cót ép là một gia đình... khi đêm về có trận mưa làm không khí bớt nồng nặc mùi hôi thối”(Anh lính Tô-ny D); “Cái xóm của mấy ông giáo bậc đại học, hàng năm nay im lìm như bãi tha ma...” (Thân phận cu ly); “Phòng mười hai mét. Muỗi tấu nhạc inh tai. Cái ao trước nhà bốc mùi nước cống, chẳng tôm cá nào sống nổi” (Thầy giáo dạy triết).
Trên nền những không gian sống tranh tối, tranh sáng, thiếu khí thở, đầy hỗn tạp, tiềm ẩn nhiều bất ổn, là hình ảnh con người tồn tại vật vờ, không biết mình là ai. Cuộc sống mưu sinh ám ảnh bởi đói nghèo lam lũ, nhếch nhác, nhọc nhằn... đã khiến họ dễ bị cuốn theo lối sống bản năng, không còn là chính mình. Các nhân vật của Lê Minh Khuê đủ hạng người giàu, nghèo, xấu, tốt..., thuộc các tầng lớp nông dân, tiểu thương, trí thức, công nhân, binh sĩ..., tất cả vật vã trong công cuộc sinh kế để giành miếng cơm, manh áo, sự tồn tại hôm nay mà không biết đến ngày mai. Họ bị “biến hình” thành kẻ khác với nhiều cấp độ: khi là kẻ vừa đáng thương vừa đáng trách, khi là kẻ chớm hư hỏng, mon men chạm đến tội ác nhưng còn khả năng thức tỉnh, cũng có nhiều kẻ bị nhuộm đen hoàn toàn và chỉ là con thú đội lốt người.
Nhìn tổng thể, tác phẩm của Lê Minh Khuê đã phác họa sống động bức tranh xã hội Việt Nam sau cuộc chiến tranh khốc liệt, và bước vào thời điểm khi mặt trái của nền kinh tế thị trường bắt đầu chi phối sâu sắc đời sống xã hội. Đó là một bức tranh lập thể loang lổ, một khối vuông rubic hỗn loạn muôn màu, trong đó mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng trở nên lạnh lùng, rời rạc, nhiều giá trị của Cõi Người bị hủy hoại nghiêm trọng trong đó có nền tảng văn hóa gia đình. Với trải nghiệm cuộc sống sâu sắc, Lê Minh Khuê đã thấu hiểu thân phận những con người sống trong bi kịch gia đình khi các thuần phong mỹ tục vốn là những giá trị truyền thống về văn hóa đã được tôn vinh ngày nào nay đang bị chà đạp không thương tiếc. Nỗi đau ấy như những vi mạch thấm trong từng trang viết của nhà văn và bật lên những tiếng kêu thảng thốt giữa sa mạc cuộc đời mà đồng tiền được tôn thờ như một thứ “đạo”, còn tình cảm thiêng liêng giữa cha con, anh em ruột thịt nhiều khi bị vùi lấp một cách tàn nhẫn. Nạn nhân của những bi kịch này không ai khác, họ là những ông bố, đứa con, người anh, em... bị bỏ rơi trong cô độc, bị đối xử lạnh lùng, xa lạ. Những truyện ngắn Đồng đô la vĩ đại, Ký sự những mảnh đời trong ngõ, Anh lính Tô-ny D, Những kẻ chờ sung, Mong manh như là tia nắng, Thân phận cu ly, Đồng tiền có màu xanh huyền ảo... để lại trong lòng người đọc bao day dứt, tiếc nuối, cay đắng, xót xa về sự rạn vỡ, mất mát tình cảm quá lớn giữa những người ruột thịt máu mủ trong gia đình. Lê Minh Khuê đã rung hồi chuông cảnh tỉnh đối với Cõi Người đang đứng trước thảm họa nhân tính bị hủy diệt bởi những tham vọng và đam mê vật chất tầm thường, như một thứ vi trùng hủy hoại tâm hồn nhân loại; Cõi Người trong cảm thức Lê Minh Khuê thời hậu chiến là một Cõi Người mang đậm chất nhân văn - một chất nhân văn như những tia sáng soi chiếu, cứu rỗi lương tri con người đang dần chìm sâu hố thẳm tội lỗi.
Bút lực văn chương của Lê Minh Khuê được thể hiện rõ khi nhà văn xây dựng chân dung những nhân vật bị biến dạng nhân tính bởi sự điều khiển của đồng tiền và quyền lực. Với sự nhạy bén và tỉnh táo, Lê Minh Khuê đã tạo được cái nhìn riêng về một thế giới mà ở đó “đồng tiền lên ngôi thượng đế” (Những kẻ chờ sung). Khai thác những mảng đề tài mới mẻ, bằng lối viết mạnh bạo, sắc lạnh, tác giả làm bật dậy những thân phận, những tính cách có góc cạnh và chiều sâu tâm lý. Gấp trang sách lại dường như vẫn thấy nhân vật này đi lại, ăn nói, tính toán hành động một cách tai quái, ác hiểm thật tự nhiên, sinh động. Bọn họ quay cuồng, điên đảo trong vũ điệu man dại của Đồng đô la vĩ đại, ma lực của Đồng tiền có màu xanh huyền ảo.
Thái độ tôn thờ đồng tiền một cách mù quáng, coi tiền trên hết là nguyên nhân gây ra bi kịch trong chính cuộc đời lão Thiến và gia đình lão (Anh lính Tô-ny D). Trong quá trình xây dựng tính cách loại nhân vật này, nhà văn luôn tô đậm thái độ của họ trước sự hấp dẫn của đồng tiền. Đây là hình ảnh của lão Thiến khi thằng con lão mang về một cái ba lô to mà lão đoán là “của sụ”: “Lão Thiến quanh ra quẩn vào, mắt liếc liếc cái ba lô. Ruột gan lão cồn cào... lão không thể nhịn được nữa... lão như ngồi trên lửa”. Đó là trạng thái “xúc động” của kẻ khát tiền, coi tiền như người tình. Lê Minh Khuê tỏ ra có biệt tài khi lách sâu ngòi bút miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật, nhà văn như hoá thân vào nhân vật, đọc được “trạng thái tinh thần kỳ lạ mà lão vẫn có khi nghe tin con có tiền”, tiền khiến “miệng lão nhạt như ngậm phải bèo, mắt lão đục lờ đờ, nhìn không rõ”. Lão trở thành ngu muội, mụ mị, u mê, hau háu trước những đồng tiền bất chính mà thằng con lão mang về. Với thủ pháp cường điệu được sử dụng một cách có hiệu quả, với nghệ thuật châm biếm tinh tế, nhẹ nhàng, Lê Minh Khuê đã phác hoạ những nét ấn tượng ghê rợn về một loại người tha hoá trần trụi, nhơ bẩn, gớm ghiếc - sống một cuộc sống quái gở, tù hãm, hủ hậu của loài thú vật. Tuy vậy, sự táng tận lương tâm vì tiền ở “con thú bố” vẫn còn thua xa “con thú con”. Thằng Thán mang trong mình gien tha hoá di truyền từ lão Thiến, hắn “là môn đệ của bố” trong ngón nghề “thó của” của người khác, nhưng hơn hẳn bố ở chỗ “thường làm các quắn to”, “không lèm nhèm ăn vặt”. Hai bố con “đầu trộm đuôi cướp” này gầm gừ canh chừng lẫn nhau vì bọc tiền kiếm được từ một bộ xương người lính Mỹ. Tiền đã khiến hai “con thú “này không từ bất cứ một phương kế kiếm chác nào, kể cả việc đầu cơ trên bộ xương người chết. Một phương kế thật “độc chiêu”, một hành vi phủ định nhân tính nhất. Vì tiền xâu xé lẫn nhau, tình cảm cha con thiêng liêng bị sổ toẹt, vứt bỏ, không hề vướng bận. Chi tiết tác giả để cho Thằng Thán lạnh lùng, thản nhiên chặt đứt lìa ngón tay út của bố để “thị oai” - Đó là cách đối xử của những con vật hoang dã...
Ở thế kỷ XIX, nhà văn hiện thực vĩ đại người Pháp Honoré de Balzac cũng đã từng cảnh báo nhân loại về sức công phá khủng khiếp của đồng tiền đối với tình nghĩa cha con qua tiểu thuyết bất hủ Lão Gôriô. Thời nay, với cách thể hiện mới mẻ theo quan niệm của riêng mình qua những trang văn đầy cảm xúc, Lê Minh Khuê khiến bạn đọc ghê sợ ma lực của đồng tiền và sự công phá của nó với những giá trị văn hóa gia đình tưởng như bền vững, thiêng liêng nhất.
Cùng một giuộc với bố con lão Thiến, vì tiền mà bán mình cho quỷ dữ còn có anh em lão Khang, An (Đồng đô la vĩ đại), lão Tê (Những kẻ chờ sung), vợ chồng lão Tó (Ký sự những mảnh đời trong ngõ), anh em Quanh, Lanh (Sân gôn)... Mỗi nhân vật thể hiện một cách hành xử tàn bạo riêng trước lưới bủa vây của ma lực đồng tiền. Cũng viết về những gì rất đời thường nhưng độ sắc trong những trang viết của Lê Minh Khuê là ở chỗ nhà văn dám dũng cảm nhìn thẳng vào những “mặt cắt của dòng đời” (dùng chữ của Nguyễn Minh Châu), những bi kịch nhân sinh, gián cách mổ xẻ nó một cách trung thực táo bạo, từ đó lật tẩy những trớ trêu, những nghịch cảnh cuộc sống.
Bên cạnh sự tha hoá, băng hoại nhân tính của những kẻ tham tiền là sự lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của những kẻ hám quyền lực. Ông Tuyên trong Bi kịch nhỏ là nhân vật khá ám ảnh về hạng người này. Để bóc mẽ chân tướng của con thú đội lốt “nhà cách mạng”, Lê Minh Khuê đã không né tránh khi điểm lại những hành động phi nhân tính, xảo quyệt của hắn trong quan hệ cư xử với gia đình và xã hội. Với gia đình hành động tội ác của “bác Tuyên” khởi đầu bằng việc “bỏ rơi một người vợ trẻ, một đứa con trong cái vạc dầu sôi sục” thời kỳ cải cách ruộng đất. Bỏ một cách nhẫn tâm, độc ác để “quay lại chăm lo cho bộ lông của mình như loài thú”. Vợ ông “thù oán sự hèn hạ của chồng đã chết một cách đau đớn tức tưởi”, con trai ông mới ba tháng tuổi đã phải lưu lạc góc biển chân trời. Khi đã đánh bóng và bao bọc được hình ảnh của mình trong một vầng hào quang giả tạo (lý lịch trong sạch, có nhiều công trạng “to lớn”) hắn bắt đầu cuộc đời quan chức cao cấp uy nghi quyền lực “đứng đầu thành phố trực thuộc trung ương”. Tính cách bạo chúa của ông Tuyên được phát huy cao độ trong suốt thời gian ông ngự trị trên cái ghế cao quyền lực.
So với bọn người bị điều khiển bởi đồng tiền, mức độ nguy hiểm của con người hám quyền lực này đáng sợ hơn nhiều, bởi lẽ mọi hành động của hắn đều được sơn phủ một lớp “đạo đức” giả mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra hoặc có thấy cũng không thể làm gì được hắn bởi bản lĩnh lạnh lùng của kẻ “ít bộc lộ tình cảm này”. Một chuỗi những hành động tội ác của ông Tuyên kết thúc bằng sự trả giá quá đắt của hậu thế: chính ông cùng tham vọng quyền lực điên cuồng đã đẩy con ông đến chỗ loạn luân và cái chết bi thảm.
Nhân vật Tuyên - một sản phẩm cặn bã của sự tha hoá quyền lực được tái hiện khá sinh động, chỉ điểm qua một số hành động và con đường tiến thân của hắn, Lê Minh Khuê đã phác hoạ khá trọn vẹn chân dung của một tên độc tài, cơ hội, tàn ác, gian hùng.
Với ý thức cách tân, nhà văn đã miêu tả đời sống bằng cái nhìn tỉnh táo, Lê Minh Khuê đã tỏ ra khá triệt để trong việc sử dụng bút pháp “hiện thực tàn nhẫn” để tái hiện chân dung đời sống trong tính phi lý tưởng của nó. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy trong những trang miêu tả “hiện thực hạ đẳng” (chữ dùng của M. Bakhtin) văn mạch của Lê Minh Khuê không còn thủ thỉ, êm đềm như trước. Bà đã không kiêng dè, ngần ngại lột mặt nạ các quan hệ đời sống, nói về cái xấu, cái ác của những con thú đội lốt người bằng một giọng văn tiết chế, lạnh lùng, thản nhiên, khách quan, đôi khi chủng chẳng khô khan, nhưng đầy hàm ý... cuộc sống là vậy, dù muốn hay không nó vẫn trình tự diễn ra như một cuốn phim.
Lê Minh Khuê đã không nhìn đời thường bằng cảm hứng lãng mạn thuần tuý màu hồng mà coi nó như những “mảnh vỡ”, mỗi số phận có kiểu vỡ khác nhau, chân dung hiện thực của cuộc sống vì thế lộ rõ nhiều góc khuất tối, nhiều trạng thái, nhiều thang bậc giá trị đan cài chứ không đơn điệu kiểu kết thúc lạc quan “ở hiền gặp lành”, “ta thắng địch thua” cho đúng khuôn mẫu một thời. Cái chết của nhân vật bởi hành động giết người man rợ của những kẻ không còn mang trái tim của con người tựa như một gam màu tối được tác giả tô đậm một cách có ý thức trên bức tranh, nhằm gây một ấn tượng mạnh về thẩm mỹ cho người thưởng thức. Và khi còn biết sợ cái xấu, cái ác có nghĩa là con người sẽ tìm về với ánh sáng của cái thiện, cái đẹp, có ý thức trân trọng, giữ gìn những gì thuộc giá trị nhân văn và đây cũng là điều mà truyện ngắn của Lê Minh Khuê thức nhận nơi người đọc. Và phải chăng đó chính là thành công và là niềm hạnh phúc lớn nhất của người cầm bút trong việc thực hiện thiên chức của mình!?
Nhà văn không hề ảo tưởng về cuộc sống, vì thế bà không quay lưng lại với những nỗi đau nhân thế. Với ý thức “Viết về cái ác cũng là một sự thức tỉnh nhân tính”, Lê Minh Khuê đã dám dấn thân, hoà nhập với những thân phận đang chìm dưới đáy sâu của xã hội, nhìn thẳng vào nỗi đau, niềm nhức nhối của con người trong sự bủa vây của sự gia tăng cái ác - báo động khẩn thiết về sự khô kiệt nhân tính xuất hiện ở khắp nơi trên cõi nhân gian.
Lê Minh Khuê đã thành công trong một xử lý nghệ thuật có tính thử thách với người cầm bút. Trong dạng ngắn của nó, truyện của Lê Minh Khuê là những mảnh đời đến với ta từ nhiều góc độ, nhiều phía, không trùng lặp, đơn điệu. Cuộc đời được nhìn bằng sự “tự cảm thấy” của nhà văn. Chính tại đây khuôn mặt đích thực của đời sống hiện lên sắc nét hơn đâu hết. Đằng sau một hiện thực nhiễu loạn - Cõi Người đảo điên bề bộn là cái nhìn nghiêm túc, sắc sảo của nhà văn về cái xấu xa, tàn ác. Là nỗi niềm nhức nhối khát khao: Con người có tỉnh ngộ, có đau lòng hay không trước hiện trạng này? Nhân vật của chị vẫn sống ngang nhiên giữa đời thường, “Mong mỏi đến ngày họ giác ngộ là người viết. Đau lòng hơn cả cũng là người viết”1.
Một điều đáng lưu ý là đọc tác phẩm Lê Minh Khuê, chúng ta thấy xuất hiện nhiều nhân vật thuộc tầng lớp trí thức. Họ là nhà báo, kỹ sư và nhiều hơn cả là nhà giáo. Rõ ràng, vấn đề người trí thức thời hậu chiến là điều mà Lê Minh Khuê có nhiều trăn trở, ưu tư.
Trước Lê Minh Khuê, hình ảnh người trí thức đã từng xuất hiện trong tác phẩm của một số nhà văn hiện thực phê phán và đặc biệt thành công dưới ngòi bút miêu tả sắc sảo của Nam Cao. Cùng thời với chị cũng có nhiều nhà văn viết về đề tài người trí thức như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... Như vậy để xây dựng kiểu nhân vật này Lê Minh Khuê vừa phải biết tiếp thu những gì là tinh hoa của các bậc tiền bối, vừa phải biết tinh nhạy kịp thời đón những cái mới của thời đại theo cách riêng của mình và chỉ có như vậy nhân vật của chị mới có cơ hội có chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Thực tế, nhà văn đã cố gắng thể hiện được điều này qua chân dung nhân vật của mình.
Điều dễ nhận thấy là để phác họa chân dung những trí thức, Lê Minh Khuê thường đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh có vấn đề. Trong quá trình “nếm trải” hoàn cảnh mang tính thử thách đó thường thì nhân vật “giãy giụa” mong thoát khỏi bi kịch của số phận và trong quá trình “tìm đường” họ bị rơi vào những cái kết cục khác nhau: có nhân vật xuôi đi theo cái xấu, có nhân vật ý thức rõ về sự “đánh mất dần” bản thân và cố gắng vượt qua hoàn cảnh nhưng thật khó khăn và phần lớn chẳng đi đến đâu.
Sự dần đánh mất bản thân mình của những nhân vật trí thức trong truyện ngắn Lê Minh Khuê được thể hiện ngay ở diện mạo bên ngoài... Trong các tác phẩm Thằn lằn, Thân phận cu ly, Thầy giáo dạy triết, Roman keating... nhà văn thường tuỳ từng nhân vật, trong từng hoàn cảnh cụ thể chọn lấy những chi tiết “biết nói” để phác hoạ “thần thái” nhân vật. Thủ pháp đặc tả thậm xưng, tả kết hợp với phương thức so sánh gắn liền cái nhìn trào phúng hóm hỉnh khiến diện mạo bề ngoài của các nhân vật hiện lên có hình ảnh, đường nét sinh động: nhếch nhác, bệ rạc, yếu đuối, bất lực đến thảm hại. Từ dáng vẻ này, người ta có thể đọc được phần nào đời sống bạc nhược “con người bên trong” của nhân vật. Câu hỏi đặt ra là nguyên nhân nào đã dẫn họ đến chỗ “dị mọ” (từ dùng của LMK) như vậy? Thông qua việc mô tả trạng thái tinh thần của nhân vật, những diễn biến tâm lý, những việc làm, cử chỉ, hành vi của họ tác giả đã cắt nghĩa sâu sắc, chỉ ra căn nguyên tha hoá của tầng lớp trí thức nói riêng và con người nói chung trong xã hội hiện đại.
Lê Minh Khuê tỏ ra vừa hài hước châm biếm, vừa nhân hậu, sắc sảo trong việc tái hiện tâm lý nhân vật trong hoàn cảnh. Nhân vật của chị được đặt trong quá trình suy thoái không thể cưỡng. Và từ trên cái cầu trượt đó, anh ta rơi vào cái chết mang tính hai mặt: thể xác và tinh thần. Từ cái chết của tư cách một nhà giáo đưa tới cái chết của chính bản thân anh ta. Cũng giống như nhân vật trí thức của Nam Cao, nhân vật trí thức tha hoá của Lê Minh Khuê mang trong mình nội tâm những bi kịch giày vò trước sự vô vị, vô dụng của cuộc đời mình khi anh ta đánh mất mình một cách vô thức. Trong Thằn lằn tiếng khóc hối hận, xót xa của một “gã” giáo dạy sinh vật cùng lời bộc bạch với đứa con gái khi nó cứu “gã” ra khỏi cái chết thảm thương là đỉnh cao tâm trạng bi kịch đó: “Tại bố tiếc, bố nhớ cái thời ngày xưa. Bố có đến nỗi nào. Chả đến nỗi dị mọ như bây giờ”. Không phải vô cớ mà ở phần kết truyện nhà văn miêu tả tỉ mỉ đến từng động tác của gã: “Lọ mọ cho cái cà vạt vào túi ni lông. Để vào giữa cuốn sổ, đóng cái miệng rương, cài móc sắt, đẩy cái rương vào chỗ cũ”... Ngậm ngùi, tiếc nuối, tủi cực nhưng không còn cách nào khác... Tất cả lại trở lại vị trí. Gã lại phải tiếp tục ngày qua ngày mòn mỏi, nhọc nhằn, kéo lê gánh nặng gia đình với kiếp sống “Không bằng con thằn lằn”. Người đọc cứ vừa trách, vừa thương, vừa tiếc thay hộ gã: giá như vợ chồng gã đừng ham hố đẻ nhiều đến thế, giá như họ biết vượt lên, hướng đến ánh sáng văn hoá, văn minh và không bị trói buộc bởi những tư tưởng lạc hậu thì đâu đến nỗi nào…
Ông giáo Trí (Thân phận cu ly) là sản phẩm điển hình của một thời đầy ấu trĩ. Ông ta bị hoàn cảnh biến thành một loại người sống như một cỗ máy công cụ, “Cả đời ôm đồm đống chữ nghĩa mờ mịt” nên không biết làm thêm cái gì để kiếm thêm tiền. Cũng như gã giáo viên trong Thằn lằn, giáo Trí bị ràng buộc bởi gánh nặng gia đình “đầu gio mặt muội với đàn con sáu đứa toàn vịt giời”. Mỉa mai thay “Ông có tới ba bằng đại học... học đến hói cả tóc, giơ cả xương. Suốt đời ông giảng giải về các thứ tương lai của nhân loại” vậy mà “lúc này trí thức và sức lực ông chỉ dùng cho một việc “vĩ đại”: ấy là ông ngồi tính toán cách ăn tiêu như thế nào cho vừa với đồng lương”... đồng nào gửi về quê, đồng nào cho con, đồng nào phần ông để duy trì cuộc sống?... Thói bảo thủ, tự mãn cho rằng: “Trên đời này thật khó ai có thể sánh với ông” cũng là một trong những nguyên nhân kéo ông ngày càng tụt hậu. Quanh đi quẩn lại với cái quỹ đạo ngưng đọng, trì trệ, ứ lại của cuộc sống hàng ngày. Không thể tự vượt thoát khỏi hoàn cảnh, giáo Trí nhìn đời bằng cái nhìn chua chát, cay cú, hằn học: “Vậy thì thời nào cũng thế thôi. Cóc nhái nó cứ nhảy lên đĩa cả hàng đống”. Chữ nghĩa đầy mình, “kiến thức sâu rộng” mà buồn thay ông ta không thể tìm được một cuộc sống khả dĩ cho chính bản thân mình. Cái cách “bảo tồn năng lượng” của ông ngẫm kỹ thấy thật là một sự hổ thẹn của giới trí thức thời bao cấp. Thân phận của ông giáo “ba bằng đại học” không bằng thân phận một kẻ đi làm cu ly xứ người.
Còn thầy giáo trong Thầy giáo dạy triết thì như một cái máy biết nói cũ rích, tua đi tua lại “những điều mà bọn trẻ chẳng mấy quan tâm nữa. Môn triết của thầy trái khoáy với cái điều bọn trẻ ngẫm ngợi”. Ông giáo này đã 49 tuổi mà chưa có vợ, dù không bị gánh nặng gia đình níu chân nhưng cuộc sống, phong độ của ông cũng chẳng hơn gì giáo Trí. Ông “thờ chữ trọng, như ông gàn” trong khi xung quanh đầy những ông thầy làm “hàng giả”: “Ông nọ thuổng của ông kia, rồi thuổng ở báo này báo nọ, cho vào cái cối của mình và giã thành bột riêng”... “Thầy giáo giữ mình để rồi nghèo cả danh hiệu cả tiền”. Có thật là “thầy giữ mình” không hay đó là sức ì của con người thời bao cấp? Ông có thể không “làm hàng giả” bằng cách làm khoa học chân chính vươn tới một cuộc sống không phải lúc nào cũng chỉ “thú vị” với món “đậu sốt cà chua ăn với dưa muối”. Vậy mà thầy chấp nhận sự đơn điệu, nhàm tẻ, sống ẩn mình, mờ mờ nhân ảnh - “Thầy giáo dạy triết” không thể tự sắp xếp được những “ngổn ngang” của cuộc đời nếu không có sự giúp đỡ ân tình của một cô học trò đầy năng động.
Trong Roman keating, ông giáo dạy hợp đồng suốt ngày giáo huấn học trò vì cái tội “tâm lý sợ kém cạnh là tâm lý cố hữu”... nhưng hài hước thay chính vì chịu để mình “kém cạnh” nên ông (cũng như ông hiệu trưởng) không thể phân biệt được “Roman keating” - Cái người mà một cô học trò vẫn mượn tên để “trích dẫn” toàn những câu triết lý “cao siêu” đưa vào bài văn là ai? Để đến khi chính cô học trò cho biết Roman keating “đang hát” trên màn hình - Roman keating là ca sĩ được giới trẻ hâm mộ, ông mới thấy “một nỗi buồn thấm thía làm nước mắt ông chực tràn lên mi”.
Để xây dựng chân dung nhân vật trí thức trong thời hậu chiến, đối diện với bao thách thức của thời đại, Lê Minh Khuê chủ yếu miêu tả trạng thái tinh thần, những việc làm, cử chỉ thói quen có tính chất lặp đi lặp lại của nhân vật. Dường như cuộc đời của họ buồn tẻ, dậm chân tại chỗ, kẽo kẹt mãi điệp khúc “cuộc đời là một vòng quay”. Cũng viết về sự “đánh mất mình” của giới trí thức, nhưng nếu như trước đây Nam Cao cho rằng nguyên nhân của tấn bi kịch này là bởi người trí thức bị xã hội đương thời om vào một cái lồng hẹp và dồn đẩy họ tới chân tường của sự thống khổ, họ không thể thoát ra khỏi sự vây bủa vấn đề “cơm áo ghì sát đất” thì ở thời đại của mình Lê Minh Khuê lại tỉnh táo chỉ ra căn nguyên sâu xa dẫn đến bi kịch “sống mòn” của người trí thức hiện đại không hẳn là chuyện cơm áo mà chính là sự trì trệ, bảo thủ lạc hậu so với bước tiến của thời đại. Họ kém một bản lĩnh để vượt mình, để vươn tới ánh sáng văn hoá văn minh tinh thần và tiếp cận cái mới, cứ tự giam hãm mình trong cái vòng quay luẩn quẩn của cuộc sống để rồi bị mài mòn tất cả. Họ bị xuội đi theo những thói xấu của cuộc sống mà không thể cứu vãn nổi lòng tự trọng và nhân cách của mình, phải chấp nhận một cuộc sống tầm thường, bệ rạc, bạc nhược.
Lê Minh Khuê đã tái hiện Cõi Người trong thời hậu chiến bằng tất cả những trăn trở, suy tư của mình. Đằng sau giọng văn lúc lạnh lùng, chua chát, giễu cợt khi hài hước, hóm hỉnh là cái nhìn tỉnh táo và sâu sắc. Nhà văn đưa ra lời cảnh báo về hiện tượng đánh mất mình một cách vô thức trong xã hội hiện đại. Sự suy thoái này như một căn bệnh ngấm ngầm khó chữa và không chừa một ai kể cả những người có bằng cấp, học vị trong xã hội. Nếu từng cá nhân không tự khẳng định mình, không tự giải phóng mình thì sẽ làm nô lệ cho hoàn cảnh mà thôi!
Xuyên suốt trong các tác phẩm Lê Minh Khuê bạn đọc cảm nhận rất rõ: hiểu, thấm thía và đau đớn chân thành cùng dân tộc với những vết thương nhức nhối khó lành sau chiến tranh, nên mặc dù viết về những con người biến chất xấu xa, thậm chí đến quái gở giữa cuộc đời, truyện ngắn Lê Minh Khuê vẫn chắt chiu và nâng niu những mầm thiện nhỏ bé, những đốm lửa kỳ diệu của thiên lương còn ẩn náu trong họ và đây cũng là nét đặc sắc cần được ghi nhận về cõi người trong cảm thức của Lê Minh Khuê thời hậu chiến.
3. Không phải ngẫu nhiên một tờ nhật báo nổi tiếng của Mỹ khi nhận xét về tập truyện ngắn chọn lọc “Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa” (Nxb Phụ Nữ, 2002) của Lê Minh Khuê được dịch ra tiếng Anh và giới thiệu với công chúng Mỹ đã viết: “Dù xảy ra trong quá khứ hay hiện tại, những truyện ngắn sắc sảo, đôi lúc buồn cô quạnh trong tập truyện của Lê Minh Khuê đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của chiến tranh và sự xâm lǎng. Tập truyện này quan tâm tới tình yêu và sự đói nghèo, lòng tham và ngờ vực, phẩm giá và cái chết - và hậu quả dai dẳng của cuộc chiến tới những ai may mắn sống sót. Qua bản dịch, tác giả đã hiện ra, một người có vǎn phong đẹp, nghiêm trang cùng với sự châm biếm tinh tường, đồng thời có khả nǎng trong những nhận xét đầy khơi gợi...” (New York Times, số ra thứ Bảy, 21/10/1995)2. Nhận xét xác đáng trên cho thấy, dù trưởng thành từ trong những năm tháng chiến tranh, chịu sự chi phối của nhiều “công thức” định sẵn, sáo mòn đối với sáng tạo nghệ thuật nhưng Lê Minh Khuê đã luôn nỗ lực vượt lên giới hạn của chính mình, bền bỉ đổi mới tư duy nghệ thuật để khẳng định phong cách nghệ thuật của mình. Trong cuộc sống đời thường muôn mặt phức tạp, với độ lùi về thời gian, Lê Minh Khuê đã nghiền ngẫm và phác hoạ bức tranh hậu chiến của đất nước trong chiều sâu thăm thẳm của nó, “đời sống nghiệt ngã từng trải chỉ càng làm mạnh mẽ hơn khát vọng vươn tới cái đẹp lương thiện và lãng mạn”3. Tái hiện “Cõi Người” trong thời hậu chiến như một bức tranh nguyên dạng của cõi nhân sinh đầy phức tạp, đa sự, Lê Minh Khuê đã vượt qua lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản để thể hiện chân thật sinh động cuộc sống con người như nó vốn đang hiện hữu.
Đặt nhân vật trong nhiều quan hệ khác nhau, nhà văn soi ngắm số phận cá nhân để từ đó khái quát những vấn đề nhân thế. Đọc Lê Minh Khuê, có thể nhận thấy bên cạnh tinh thần phản kháng chiến tranh mạnh mẽ, nhà văn còn muốn thức nhận cho người đọc hiểu rằng: trong sự phát triển của đời sống, chừng nào còn thiếu ánh sáng của văn minh và sự ràng buộc của cộng đồng văn hoá thì con người còn bị đánh mất mình, mất dần ý thức công dân cũng như lương tâm của mình. Sự nghèo nàn quẫn bách cả về cuộc sống vật chất lẫn tinh thần chính là bóng đen nuôi dưỡng cái ác. Những mảnh đất cằn cỗi đã làm cho con người trở lên đớn hèn, nhỏ nhen, ti tiện. Những đố kỵ, hằn thù, ganh ghét, những định kiến bảo thủ, hẹp hòi và đạo đức giả đã bào mòn dần phần Người trong mỗi một Con Người. Phải chăng, tác giả đã thành công trong dụng ý nghệ thuật: dùng cái ô trọc đời thường trong Cõi Người để rung những hồi chuông cảnh tỉnh con người trước hiện tượng cái xấu, cái ác, cái giả dối đang gia tăng, lấn lướt cái đẹp, cái thiện, cái chân thật?
Lê Minh Khuê - nhà văn với ý thức và trách nhiệm cao, luôn làm mới ngòi bút của mình để đem đến cho người đọc những khoảnh khắc thú vị bất ngờ. Đằng sau mỗi câu chuyện về những điều tưởng chừng rất nhỏ của mỗi thân phận là những thông điệp về Cõi Người muôn màu, muôn vẻ, vừa quen vừa lạ. Thông điệp đó có lúc là lời cảnh báo, có khi là sự ngợi ca, phê phán, đồng tình, lúc lại là nỗi ưu tư, niềm trắc ẩn, mong ước, tin yêu, hy vọng… và trên hết là tinh thần trân trọng những giá trị nhân văn, nhân bản với khát khao tha thiết hướng về những gì tốt đẹp nhất cho con người và vì con người… Những điều đó chính là cơ sở làm nên giá trị đặc sắc trong tác phẩm của Lê Minh Khuê và cũng là sức hút “vẫy gọi” bạn đọc đến với thế giới văn chương của nhà văn.
--------------------
Chú thích
(1), (3). Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê người đàn bà viễn thị (lời cuối sách), Trong: Lê Minh Khuê, Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa (Truyện ngắn chọn lọc), Nxb. Phụ Nữ, H., 2002. tr. 444, 445.
(2). Dẫn theo: Lê Minh Khuê, Những dòng sông, buổi chiều, cơn mưa (Truyện ngắn chọn lọc), Nxb. Phụ Nữ, H., 2002. Bìa 4.
Tài liệu tham khảo
1. Cao Thị Hồng, Lý luận phê bình văn học: Một góc nhìn mới, Nxb. Hội Nhà Văn, H.2017.
2. Dương Tùng, Bi kịch nhỏ - Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Tạp chí Cộng sản (số 10), 1993.
3. Các tác phẩm của Lê Minh Khuê.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...