
Góc biếm họa số 4 (2025)

Từ xưa, việc sáng tác thơ ca vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh thế giới tự nhiên… đã khá phổ biến. Thời Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông, cùng với sự phát triển của văn hóa, phong trào sáng tác thơ ca được đẩy cao. Bản thân là một vị minh quân yêu thích thơ ca, Lê Thánh Tông đã tập hợp các văn thần lại thành lập một Tao đàn bao gồm 28 người, gọi là Tao đàn Nhị thập bát tú do chính ông là Nguyên soái. Tao đàn Nhị thập bát tú chủ yếu sinh hoạt, xướng họa thơ ca, ngâm vịnh các chủ đề, tạo nên một đời sống văn hóa - văn học rất phong phú trong triều đình thời đó. Tác phẩm của Tao đàn Nhị thập bát tú bao gồm cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Về sáng tác chữ Hán, có thể kể đến Quỳnh uyển cửu ca bao gồm 9 bài thơ chữ Hán do vua Lê Thánh Tông sáng tác và các bài họa lại của văn thần. Còn ở phương diện chữ Nôm (quốc âm), Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ tiêu biểu nhất cho hoạt động xướng - họa, ngâm vịnh.
Thơ Nôm trong Hồng Đức quốc âm thi tập chủ yếu vịnh cảnh, vịnh vật và vịnh sử, vịnh thế giới tự nhiên, các bài thơ trong những chủ đề này thường do Nguyên soái Lê Thánh Tông khởi xướng sau đó các văn thần trong Tao đàn họa lại.
Mở đầu Hồng Đức quốc âm thi tập là Thiên địa môn với 59 bài thơ Nôm. Trong môn loại này, bài thơ đầu tiên, như một sự khởi đầu cho chu kỳ một năm, cũng là bài thơ Nguyên đán:
Cơ mầu thợ hóa bốn mùa vần,
Đông cuối ba mươi mồng một xuân.
Rỡ rỡ cửa vàng ngày Thuấn rạng,
Làu làu phiến ngọc lịch Nghiêu phân.
Cao vọi vọi ngôi hoàng cực,
Khắp lâng lâng phúc thứ dân.
Tôi mọn dự đòi hàng ngọc duẩn,
Non cao kính chúc tuổi minh quân.
Bài thơ trên là tác phẩm tiêu biểu cho cảm nhận về ngày Tết của một vị vua trong văn học trung đại Việt Nam. Nó khác biệt nhiều so với đại chúng nhân dân, sự khác biệt này có thể đến từ góc nhìn của bậc quân vương, kiến thức của bậc danh Nho về Kinh Dịch, về sự vận hành của thời gian.
Tết Nguyên đán dưới góc nhìn của bậc quân vương
Đầu tiên có thể thấy, cách nhìn nhận về Tết Nguyên đán của vua Lê Thánh Tông rất khác biệt so với quần chúng nhân dân. Dân gian thường chào đón “buổi sớm đầu tiên” (Nguyên đán) như là một khởi đầu mới, là sự bắt đầu của may mắn trong một năm sắp tới, và xua đuổi những điều xui rủi, quên đi những vận hạn của năm cũ đã qua. Người dân chào đón năm mới với sự hân hoan, hòa đồng vào không khí mùa xuân tươi vui, thưởng thức những món ăn truyền thống, thăm hỏi, chúc tụng nhau hoặc chơi những trò chơi dân gian... Ở nơi ngôi cao, bậc quân vương lại nhìn Nguyên đán ở một góc độ khác, mang tính chất chiêm nghiệm hơn. Vua Lê Thánh Tông nhìn nhận “buổi sớm đầu tiên” giống như một yếu tố tất yếu của tạo hóa. Đó là sự xoay vần của vũ trụ, tự nhiên. Rõ ràng, đây là cách nhìn ở tầm vĩ mô của một nhà lãnh đạo đất nước. Điểm nhìn trên ngôi cao, cách nhìn của một minh chủ là điều khác biệt rất lớn của Lê Thánh Tông nói riêng và các vị vua khác nói chung đối với ngày Tết Nguyên đán.
Như vậy, có thể thấy cảm nhận ban đầu của Lê Thánh Tông về ngày Tết thể hiện tầm nhìn, sự chiêm nghiệm của một trí thức vương giả. Cảm nhận vũ trụ xoay vần, thời gian đi hết một chu kỳ bốn mùa để lại bắt đầu một vòng vận hành. Không thể nói sự cảm nhận này chỉ thiên về lý trí, vì trong hai câu thơ đầu tiên, tác giả cũng thể hiện được phần nào tâm trạng hân hoan, hồ hởi đón chào năm mới.
Tâm trạng hồ hởi của Lê Thánh Tông còn được thể hiện rõ nét hơn ở hai câu thơ sau:
Rỡ rỡ cửa vàng ngày Thuấn rạng,
Làu làu phiến ngọc lịch Nghiêu phân.
Dụng điển là thủ pháp thường thấy ở các tác gia văn học trung đại Việt Nam. Việc dụng điển thể hiện được tri thức uyên bác của các nhà thơ, nhà văn. Ngoài ra khả năng dụng điển khéo léo cũng nâng giá trị câu thơ lên nhiều phần. Trong hai câu thực của bài thơ Nguyên đán, Lê Thánh Tông đã thể hiện được cả hai đặc điểm trên. Là một trí thức Nho học, Lê Thánh Tông thông làu kinh sử, kiến thức uyên thâm; là một bậc minh quân, ông lấy hai vị vua trong truyền thuyết của Trung Quốc là hình tượng lý tưởng - vua Nghiêu và vua Thuấn. Theo sách Thượng thư, một thư tịch cổ của Trung Quốc, vua Nghiêu sai hai viên quan cận thần là Hy và Hòa làm ra lịch pháp để tính thời gian. Do đó lịch Nghiêu có thể hiểu là lịch được phân định từ thời vua Nghiêu, nhưng cũng có thể hiểu một cách khái quát hơn là sự phân bổ và chế định thời gian đã có từ lâu đời, đến nay vẫn còn kế thừa và ảnh hưởng. Vua Thuấn, theo truyền thuyết Trung Quốc, là ông vua lập ra thời đại Ngu Thuấn, đồng thời cũng là người nối nghiệp vua Nghiêu, được chính vua Nghiêu truyền ngôi cho. Thời kỳ vua Thuấn trị vì trăm dân yên ổn, đất nước thái bình, nơi nơi no đủ. Hai triều đại của vua Nghiêu và vua Thuấn vì thế luôn trở thành hình mẫu lý tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như Trung Quốc noi theo. Việc Lê Thánh Tông dẫn điển về hai vị vua này thể hiện sự khéo léo trong việc “mượn cũ nói mới”. Đó là hai triều đại hưng thịnh cổ xưa, nay nhà vua mượn hình tượng đó để thể hiện khát vọng xây dựng một đất nước Đại Việt hưng vượng dưới thời Hồng Đức.
Cặp câu thơ trên còn có điểm nhấn hai từ tượng hình rỡ rỡ và làu làu. Hai từ này tạo ra được cảm giác tươi sáng, huy hoàng, lưu danh thiên sử của hai triều đại cổ xưa Trung Quốc, cũng thể hiện được khát vọng phát triển một thời đại Hồng Đức huy hoàng của Lê Thánh Tông. Và sự thực thời Hồng Đức đã để lại không ít thành tựu trong lịch sử Việt Nam.
Kế thừa và diễn giải kỹ hơn cho tư tưởng này, Lê Thánh Tông tiếp tục miêu tả và bình phẩm xã hội thời Hồng Đức qua hai câu thực:
Cao vọi vọi ngôi hoàng cực,
Khắp lâng lâng phúc thứ dân.
Ở vị trí “ngôi hoàng cực” không ai khác chính là nhà vua, Lê Thánh Tông đặt mình vào vị trí này để thấy được vai trò trách nhiệm của ông đối với bách tính. “Ngôi hoàng cực” ông đang ngồi đó cao vọi vọi, uy nghiêm, tỏa ánh sáng xuống kinh thành Thăng Long, soi rọi muôn phương trên lãnh thổ Đại Việt. Vì lẽ đó, thứ dân nơi nơi mới được hưởng phúc lâng lâng. Có thể Lê Thánh Tông phần nào đã khoa trương khi nói về thời đại của ông nhưng tư tưởng của ông tương đối mạch lạc, nếu là vua phải là “vua sáng” (quân minh), nếu là bề tôi phải là “bề tôi hiền” (thần lương). Xã hội thể hiện chính danh rõ ràng, như vậy xã hội sẽ đi vào trật tự, khuôn khổ và có nền tảng cho sự phát triển. Bản thân Lê Thánh Tông cũng nhận định, thành quả của ông có một phần không nhỏ của những đại thần phò trợ. Ông ví các bề tôi giúp sức ông giống như hàng hàng “măng ngọc” (ngọc duẩn). Những thân măng khỏe khoắn, tràn đầy sức sống ấy vây quanh và phò trợ Lê Thánh Tông xây dựng thời đại nhiều vinh quang ở thời Quang Thuận và Hồng Đức.
Nguyên đán là bài thơ mở đầu cho Hồng Đức quốc âm thi tập, cũng là mở đầu cho ca khúc huy hoàng về thời đại Lê Thánh Tông, được chính nhà vua và các văn thần tấu lên. Sự khởi đầu cho một năm, khởi đầu cho một vòng tuần hoàn của tự nhiên trời đất, dưới góc nhìn của bậc quân vương cũng độc đáo và khác thường so với đại chúng, đặc biệt đó là góc nhìn thường thấy trong văn học cung đình thời trung đại ở Việt Nam.
Ngày Tết là bắt đầu của một chu trình vận động, ứng với quẻ Thái
Lê Thánh Tông là một bậc túc Nho, ông am hiểu Kinh Dịch, do đó khi sáng tác thơ ca, ông đã không ít lần vận dụng lý thuyết Dịch học. Có thể thấy Chinh Tây kỷ hành thi tập là một ví dụ.
Trong bài thơ Nguyên đán nói trên, có thể lý thuyết kinh Dịch chưa được thể hiện rõ nhưng màu sắc và yếu tố “Dịch học” vẫn xuất hiện.
Theo 64 quẻ trong Kinh Dịch, tháng Giêng ứng với quẻ số 11 là Địa Thiên Thái. Quẻ này có tượng nội quái là Càn ☰, tức là Trời; ngoại quái là Khôn ☷, tức là Đất. Được giải thích là điều hòa, thông suốt, am tường, hòa hợp. Thoán từ của quẻ này là: “Tiểu vãng đại lai, cát, hanh”, tức là sự nhỏ qua đi, sự lớn đến, tốt lành, hanh thông. Bàn thêm về thoán từ có thể hiểu: “Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại (…) là trời đất giao cảm mà muôn vật tương thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.
Khởi đầu của tháng Giêng chính là ngày Nguyên đán, như vậy Nguyên đán còn có thể được gọi là “khai Thái”. Trong một bài họa của bài thơ Nguyên đán nói trên, một văn thần đã viết ngay câu đầu tiên như sau: “Ba dương đà gặp thuở thì vần”, và trong một bài họa khác cũng có một tương tự “Tiết ba dương thịnh hây hây nở”. Trong hai câu thơ này đều nhắc đến “ba dương” tức tam dương, đây chính là tượng của 3 hào dương Càn thuộc nội quái của quẻ Thái. Trong quan niệm về Dịch học, tam dương là khởi đầu, là nền tảng vững chắc của sự hài hòa, đẹp đẽ, do đó sau này người thường thờ bức tranh Tam dương khai thái để cầu mong sự phát triển tốt đẹp, hài hòa cho gia đình. Trong văn hóa Á đông, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc, tục thờ tranh Tam dương khai thái khá phổ biến trong dân gian. Nếu như Tam dương khai thái của Trung Quốc thường vẽ ba con dê dưới ánh mặt trời thì bức tranh cùng tên của làng tranh Đông Hồ ở Việt Nam lại là hình hai chú gà trống với biểu tượng của mặt trời trên lưng.
Như vậy, có thể thấy ngày Nguyên đán là một ngày khởi đầu cho những sự tốt đẹp, là lúc dương khí xuất hiện, làm nền tảng, khởi nguồn cho sự phát triển tốt đẹp. Bốn mùa bắt đầu bằng mùa xuân, một năm khởi đầu từ Nguyên đán. Việc nhìn nhận Nguyên đán là một sự khởi đầu cho những điều tốt đẹp thể hiện được hiểu biết uyên thâm, kiến thức quảng bác của các bận trí thức vương giả, vua quan trong xã hội xưa. Điều này thể hiện sự nghiên cứu sâu về đạo tự nhiên của tác giả, thể hiện sự giác ngộ ở một cảnh giới cao của triết lý nhân sinh.
Có nhiều cách để đón chào “buổi sớm đầu tiên” của một năm, nhưng cách nhận thức và đón chào của vua quan thời Lê sơ, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông đem lại một cái nhìn khác biệt đối với đại chúng nhân dân. Vì lẽ vị trí của một bậc quân vương gánh trên vai cả giang sơn Đại Việt, vì lẽ là bề tôi của một minh chúa chịu trách nhiệm phò tác minh quân gây dựng sự phồn vinh cho đất nước nên vua Lê Thánh Tông và các văn thần đã nhìn nhận và đón nhận Tết Nguyên đán bằng một góc nhìn vĩ mô mang đậm đặc trưng văn hóa của xã hội phong kiến.
0 đã tặng
Hãy liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0988827920 (Ngô Ngọc Luận), nếu bạn có nhu cầu thưởng thức những ấn phẩm của Văn nghệ Thái Nguyên.
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...