Thứ sáu, ngày 14 tháng 03 năm 2025
02:53 (GMT +7)

Bút pháp hài hước của Nguyễn Du trong Truyện Kiều

Hơn 200 năm nay các nhà nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều đã chỉ ra bút pháp trữ tình, lãng mạn, hiện thực và phê phán của nhà thơ vĩ đại. Điều ấy khỏi phải bàn, nhưng Nguyễn Du vĩ đại hơn còn là ở bút pháp hài hước. 

nc
Ảnh minh họa (nguồn: internet)

 

Hài hước, giễu nhại một xã hội suy vong

Truyện Kiều mới đầu cho ta sống trong một xã hội thịnh trị, huy hoàng, dưới thời nhà Minh:

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Nguyễn Du cho ta biết thời gian cụ thể (Gia Tĩnh là niên hiệu của vua Thế Tông năm 1522 - 1566). Không gian cụ thể là “bốn phương”, ở đây tác giả cho hay là “phẳng lặng”. Nghĩa là toàn bộ đất nước Trung Hoa an lạc, thanh bình. Cụ thể nhất là Bắc Kinh và Nam Kinh (hai kinh), nơi đô hội nhất nước, là trung tâm chính trị kinh tế, văn hóa của đất nước “vững vàng”. Trong xã hội đó gia đình Vương Ông là đại diện. Một gia đình trung lưu, có nhà cửa, tài sản “thường thường bậc trung”, có con trai con gái được học hành tử tế. Họ sống yên lành, tự do thực hiện tín ngưỡng cùng nhân gian trong thanh bình:

Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là Đạp thanh.

Tất cả trông như thế, ai mà biết được ấy chỉ là bề ngoài. Ngay thời gian ấy gia đình Vương Ông đã bị tai họa. Một “thằng bán tơ” ất ơ nào đó vu oan cho. Bộ máy chính quyền của cái xã hội “phẳng lặng” ấy lập tức nhào vô cắn xé:

Người nách thước, kẻ tay dao,

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Chúng trói ngược cha con Vương Ông treo lên xà nhà và lục lọi vơ vét tài sản:

Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.

Gia đình Vương Ông gặp lao lý, phải chạy án, đút lót nhiều nơi cho quan chức với số tiền lớn ngang một mạng người:

Tính bài lót đó luồn đây,

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Để có tiền chuộc cha, Thúy Kiều phải bán mình. Gia đình tan nát, Thúy Kiều bị đày dọa, trở thành món hàng mua bán. “Bốn phương phẳng lặng” gì mà Từ Hải chỉ là một tên cướp, đi chơi ở lầu xanh ngẫu nhiên gặp Thúy Kiều “qua chơi nghe tiếng nàng Kiều” mà trở thành lực lượng chống lại triều đình, trở thành Đại vương tên Hải họ Từ “làm cho động địa kinh thiên đùng đùng”, “huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam”, đã “rạch đôi sơn hà” xây dựng “triều đình riêng một góc trời” mà nhà nước ấy đánh không được, phải cử Tổng đốc trọng thần là “Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài” và cũng phải dùng âm mưu lừa gạt mới dẹp được.

“Bốn phương phẳng lặng” ấy hé lộ từ nhà thổ của mụ Tú Bà chuyên nghề buôn người. Mã Giám Sinh chỉ là công cụ. Mụ sai hắn “Đi dạo lấy người/ Đem về rước khách kiếm lời mà ăn”. Hắn đã mua Thúy Kiều với giá bốn trăm lạng vàng nhưng núp danh cưới vợ. Mã Giám Sinh bày đủ trò để trốn tránh dư luận và pháp luật, có đủ thủ tục cưới xin, nào là lễ vấn danh, lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, xin dâu... Nhưng tất cả là thừa, bởi ở Lâm Tri, nhà thổ của Tú Bà công khai, ngang nhiên hoạt động. Thúy Kiều bị mua về, vừa đến nơi đã thấy ngay:                           

Bên thì mấy ả mày ngài,

Bên thì ngồi bốn, năm người làng chơi.

Giữa thì hương án hẳn hoi,

Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.

Cũng như sau này, khi Thúy Kiều bị Hoạn Thư bắt về hành hạ, đánh đập tàn nhẫn phải chạy trốn, lại bị Bạc Bà và Bạc Hạnh bán vào lầu xanh ở Châu Thai:

Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,

Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.

Đưa nàng vào lạy gia đường,

Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh.

Hóa ra cái xã hội ấy nhan nhản nhà thổ, buôn bán người công khai, từ Lâm Tri đến Châu Thai vô pháp, vô luân ấy là “bốn phương phẳng lặng” ư?

Lại nữa, trên nẻo đường chịu đựng oan khiên của Thúy Kiều, nàng đã gặp và yêu Thúc Sinh. Khi bị vợ cả là Hoạn Thư biết đã đánh ghen ghê gớm. Ừ thì cũng thông cảm cho người “Ở ăn thì nết cũng hay?/ Nói điều ràng buộc thì tay cũng già” nhưng Hoạn bà - mẹ Hoạn Thư bằng cường quyền và bạo lực lại can thiệp quá đáng vào chuyện của gia đình con gái? Mụ tổ chức cho một bọn tay sai là Khuyển Ưng, đi thuyền sang Lâm Tri, theo ý con gái, bắt cóc Thúy Kiều: “Hãy đem dây xích buộc chân nàng về” để “làm cho đau đớn, ê chề, cho coi”. Bọn gia nhân nhà Hoạn Bà đã thực thi tội ác đó. Đêm mùa thu, mới đầu hôm, mới “gió lọt song đào”, khi Thúy Kiều đang mơ màng nhớ chồng thì chúng ập đến:

Dưới hoa dậy lũ ác nhân,

Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.

Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,

Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.

Chúng đốt nhà cửa và “thuốc mê đâu đã rưới vào” bắt cóc nàng đi. Để che giấu tội ác, chúng đã vớt “sẵn thây vô chủ bên sông” ném vào ngọn lửa.

Xã hội “phẳng lặng” thanh bình gì mà như thế, lại có “sẵn thây vô chủ bên sông”?

Tội ác của Hoạn Bà đến thế nhưng khi phiên tòa do Từ Hải tổ chức, Thúy Kiều là quan tòa xét xử thì chẳng ai nhắc đến mụ. Tội nhân gây tội ác lớn nhất cho Thúy Kiều và gia đình nàng là chính quyền với bọn sai nha, quan lại gây ra án oan, cướp bóc nhà nàng, xô đẩy nàng vào bao nhiêu đau khổ thì không thấy nhắc tới. Chỉ có mấy đứa nhãi nhép thì bị xử chém cùng với một bọn “Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà/ Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh/ Tú Bà cùng Mã Giám Sinh” tất cả đều “Máu rơi, thịt nát tan tành/ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời!”. Tội của chúng là rất nặng nhưng có đáng xử tử không? Hài hước của Nguyễn Du chính là ở chỗ đó.

Hơn nữa phiên tòa báo ân báo oán ấy Từ Hải đã cho lùng bắt những tội phạm gây đau khổ cho vợ mình. Nói cho cùng, bọn tội phạm dù nhiều cũng chỉ là một nhúm buôn người (Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh và mấy tên lưu manh...) và mấy ân nhân (Thúc Sinh, vãi Giác Duyên, mụ Quản gia) mà Từ Hải huy động hai đạo quân: “Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri”. Chỉ là phiên tòa mà Từ Hải bố trí những “quân trung gươm lớn giáo dài...”, “bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân”. Xem ra như sân khấu phường tuồng, trông thật hài hước.

 

Hài hước trong các sự kiện xã hội

Truyện Kiều có nhiều ông quan nhưng hài hước nhất là ông quan và phiên tòa xử Thúy Kiều do Thúc Ông là cha Thúc Sinh đứng đơn kiện.

Thúy Kiều có 6 đời chồng (Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, Bạc Hạnh, Từ Hải, Thổ Quan) nhưng nàng chỉ yêu 3 người là Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải. Trong đó tình yêu với Thúc Sinh là đẹp nhất, mãnh liệt và lãng mạn nhất.

Vượt qua bao nhiêu khó khăn, trắc trở của hoàn cảnh, điều kiện xã hội hai người mới đến được với nhau. Đang những ngày sống hạnh phúc bên nhau thì Thúc Ông ngăn cản không được, đã phát đơn kiện Thúy Kiều ra tòa.   

Phiên tòa này được thực hiện đúng trình tự, xử công khai.  

Cùng nhau theo gót sai nha

Song song vào trước sân hoa lạy quỳ.

Ông quan tòa xuất hiện đúng diện mạo của mọi ông quan mọi thời đại: oai vệ, nghiêm trang và uy quyền của chính quyền:

Trông lên mặt sắt đen sì.

Và để tỏ uy quyền, chưa cần xét hỏi tội trạng, nội dung đơn kiện ông ta đã “ra uy nặng lời”. Nghĩa là quát nạt (nặng lời) buộc tội đã. Ông bênh vực người bị hại (Thúc Sinh), nhất là khi người bị hại lại là con thương gia giàu có, con rể con quan Lại Bộ, hạng cao cấp có quyền có thế trong xã hội.   

Vì mới gặp “can phạm”, chưa tiếp xúc tìm hiểu gì dĩ nhiên ông vẫn đánh giá Thúy Kiều như mọi ông quan tòa khác có sẵn định kiến với phạm nhân. Ông cho rằng Thúy Kiều đã mồi chài, giăng bẫy Thúc Sinh vì tiền tài, địa vị xã hội; bởi theo ông, Thúc Sinh “dại nết chơi bời” vì Thúy Kiều “là người đong đưa” lấy sắc đẹp và thủ đoạn “nhuộm màu son phấn” để “đánh lừa con đen” bằng “hoa thải hương thừa”. Rõ ràng Thúy Kiều là người có tội, tội nặng lắm.

Xét theo “tội trạng’ của Thúy Kiều trong đơn Thúc Ông tố cáo, ông quan tòa phán:

Một là cứ phép gia hình

Một là lại cứ lầu xanh phó về.

Thúy Kiều đã chấp nhận phép gia hình, chấp nhận đòn roi xiềng xích gông cùm: “Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình”. Nàng bị đánh, bị tra tấn bằng roi, bằng gậy đến nỗi da thịt tả tơi, tóc tai rối bời, cát bụi mù sân:

Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.

Một sân lầm cát đã đầy,

Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.

Trước cảnh Thuý Kiều bị đánh đập như vậy, Thúc Sinh vốn là nạn nhân của vụ kiện đã xuất hiện nhưng không phải với tư cách, vị trí của bị hại mà là của một nhân chứng. Hơn thế nữa là của một luật sư trong phiên tòa. Chàng xót xa thương cảm, đã khóc lên và nhận tất cả tội lỗi trong cáo trạng về mình:

Khóc rằng: “oan khốc vì ta

Có nghe lời trước chẳng đà luỵ sau”

Và tuyệt vời là ông quan tòa dù “nghe thoảng vào tai” đã ra lệnh dừng tra tấn phạm nhân để tìm hiểu, điều tra ngay nhân chứng là Thúc Sinh:

Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.

Đây là “lời riêng tây”, chuyện riêng của Thúy Kiều và Thúc Sinh mà có lẽ nguyên đơn Thúc Ông không biết hoặc chưa biết. Nhân chứng Thúc Sinh mới:

Sụt sùi chàng mới thưa ngay

Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân.

Thúc Sinh đang là nạn nhân thành luật sư bào chữa, thanh minh và gỡ tội cho can phạm. Chàng đã kể lại tất cả những điều trước đây khi chàng đặt vấn đề cưới Thúy Kiều làm vợ. Rằng nàng vô tội vì: “Nàng đà tính hết xa gần”, và Thúc Sinh nhận tội:

Tại tôi hứng lấy một tay

Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.

Thế là rõ. Người gây nên “tội” không phải là Thúy Kiều. “Tại tôi”, “vì tôi” chứ đâu có phải như nguyên đơn tố cáo. Có phạt thì phạt tôi chứ, Thúy Kiều vô tội.

Nghe Thúc Sinh “Đầu đuôi kể lại…” ông quan tòa mới biết thân phận, nhân cách, khả năng, trí tuệ, tình cảm của nàng Kiều. Ông thay đổi cách nghĩ của mình về phạm nhân, đã “dẹp uy”, cho Thúy Kiều minh oan. Nhân cơ hội đó, Thúc Sinh mới cho quan tòa biết rằng nàng chẳng những có đức mà còn được học hành tử tế:

Sinh rằng: chút phận bọt bèo

Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.

Rồi để có lý do đình chỉ vụ án, ông cho Thúy Kiều vịnh ngay cái gông đang gông cổ nàng. Hài hước là “mặt sắt đen sì” của ông khi “lập nghiêm” đã biến mất. Bây giờ ông lại cười:

Cười rằng đã thế thì nên

Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.

Rồi khi Thúy Kiều làm thơ xong, trình lên. Ông quan tòa khen tài thơ của nàng “đáng giá Thịnh Đường”.  

Thơ Đường có 48.900 bài thơ, được sáng tác trong suốt 3 thế kỷ (năm 618 -907) với các giai đoạn: Sơ Đường (618 - 713), Thịnh Đường (713 - 766), Trung Đường (766 - 835) và Vãn Đường (835 - 907). Trong bốn giai đoạn của thơ Đường thì Thịnh Đường đạt đến đỉnh cao nhất, hoàn chỉnh nhất của thi ca với những Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương, Vương Bột đã đổi mới thơ các thời đại Lục Triều để đến Thịnh Đường, bắt đầu từ Trần Tử Ngang. Trữ tình và hiện thực xã hội là đặc điểm lớn nhất của Thịnh Đường.    

Trước tài thơ và sắc đẹp của “phạm nhân” ông quan tòa đã có một đánh giá về phẩm hạnh, tài năng của Thúy Kiều thỏa đáng: “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Ông cho rằng Thúy Kiều rất xứng đáng làm vợ Thúc Sinh, xứng đáng là con dâu của Thúc Ông.

Thực là tài tử giai nhân

Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.

***

Sau cuộc tình với Thúc Sinh vừa tan vỡ vì Hoạn Thư, Thúy Kiều lo sợ phải chạy trốn, lại rơi vào nhà thổ của mụ Bạc Bà. Mụ cùng với cháu là Bạc Hạnh lừa cưới Thúy Kiều làm vợ nhưng là để đem bán nàng làm gái làng chơi. Thúy Kiều sợ chuyện chồng con:

Thiếp như con én lạc đàn,

Phải cung, rày đã sợ làn cây cong.

Nhưng là con nhà gia giáo, dù bị xô đẩy vào cùng đường nàng vẫn nhớ: “Cùng đường dù tính chữ tòng/ Biết người biết mặt, biết lòng làm sao.../ Dù ai lòng có sở cầu/ Tâm mình, xin quyết với nhau một lời/ Chứng minh có đất có trời/ Bây giờ vượt biển, ra khơi quản gì”. Nàng yêu cầu phải gặp mặt, phải có lời của người hỏi cưới mình. Thế là màn kịch hài hước do mụ Bạc Bà sắp xếp được dựng lên. Gia đình nhà mụ vội vàng, nhốn nháo “Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh”. Rồi thì:

Một nhà dọn dẹp linh đình,

Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.

Tức là nhà này không có ban thờ, ăn ở lộn xộn, bừa bãi... bây giờ mới cuống lên sắp xếp, “dọn dẹp” nhà cửa, mới “quét sân”, “đặt trác”, mới “rửa bình”, mới “thắp nhang”.

Người ta thắp nhang (hương) bằng sự thành tâm, khoan thai từng động tác, đằng này “chú rể” Bạc Hạnh thể hiện là một kẻ vô học:

Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng,

Quá lời nguyện hết thành hoàng, thổ công.

Anh ta “quỳ xuống vội vàng” và bốc phét huyên thuyên “quá lời nguyện hết thành hoàng, thổ công”. Dối trá, vô học, lừa đảo của họ Bạc hài hước ở đây. Người Phương Đông trong tín ngưỡng thể hiện rất rạch ròi. Thề bồi, hứa hẹn chỉ được thực hiện ở đền, chùa, am miếu với thần thánh, không ai thề trước “thành hoàng, thổ công” cả.        

Rõ ràng nhà họ Bạc làm cho qua chuyện để vừa lòng Thúy Kiều chứ chẳng có lòng thành gì cả. Rồi đám cưới và “Thành thân mới rước xuống thuyền/ Thuận buồm một lá, xuôi về Châu Thai”. Bạc Hạnh đưa nàng đến nơi “Cũng nhà hành viện xưa nay/ Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người”. Hắn bán nàng như “Mối hàng, một đã ra mười thì buông”. Xong việc “Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa”. Nguyễn Du đã khéo chơi chữ, rất hài hước: “Bạc” (Bạc Hạnh) đem “mặt bạc” - bạc tình, bạc nghĩa - kiếm đường chạy trốn.

Càng đọc “Truyện Kiều” càng thấy ngòi bút hài hước của Nguyễn Du thật thâm thúy.

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy