Thứ bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024
08:08 (GMT +7)

Mưa tuôn xối xả

(Tiếp theo kì trước)

VNTN - Nàng nhắm mắt, phóng như một con cọp dữ qua khung cửa, làm bà nội nàng té bệt trên đất. Ở bên ngoài trong bộ đồ tang Labong'o đang đứng bất động, tay chắp sau lưng. Ông cầm tay con gái dẫn nàng tránh khỏi đám đông sôi nổi đến túp lều sơn đỏ nơi mẹ nàng đang nằm. Tại đây ông chính thức báo tin cho con gái.

Ba con người yêu thương nhau tha thiết ngồi trong bóng tối một hồi lâu. Không nói gì là tốt. Thậm chí nếu họ nói, thì lời nói có thể chẳng phát ra được. Trong quá khứ, họ như ba hòn đá chân bếp, sẻ chia gánh nặng cùng nhau. Bỏ Oganda đi, hai hòn đá còn lại trở nên vô dụng không thể đặt lên một cái nồi.

Tin cô con gái của tù trưởng sẽ được hy sinh để đổi lấy mưa cho bộ tộc lan đi nhanh như gió. Đến chiều thì ngôi làng của tù trưởng đầy những người bà con và bạn bè đến chúc mừng Oganda. Còn nhiều người nữa đang trên đường đến, mang theo những món quà của họ. Họ sẽ tổ chức cho nàng một tiệc chia tay hoành tráng. Tất cả những người bà con này nghĩ được thần linh chọn để chết cho cộng đồng được sống là một vinh dự lớn. “Tên của Oganda sẽ luôn luôn sống trong tất cả chúng ta,” họ hoan hỉ nói.

Nhưng phải chăng tình mẫu tử đã ngăn không cho Minya hòa chung niềm vui với những người đàn bà khác? Phải chăng ký ức về sự thống khổ và đau đớn khi sinh nở làm bà buồn như thế? Hay đó là sự cảm thông và hơi ấm nồng nàn đã truyền qua giữa em bé đang bú và người mẹ đã làm Oganda thành một phần đời của bà, thành máu thịt của bà? Dĩ nhiên đó là một vinh dự, một vinh dự lớn khi con gái của bà được chọn chết cho quê hương. Nhưng bà được gì khi con gái bà bị gió thổi bay đi? Trên vùng đất này còn nhiều người đàn bà khác, sao lại chọn con gái của bà, đứa con duy nhất của bà! Đời người có nghĩa gì đâu - những người đàn bà khác nhà đầy con trẻ, trong khi bà, Minya, phải mất đứa con duy nhất của mình.

Vầng trăng chiếu sáng trong bầu trời không một gợn mây, và vô số vì sao lấp lánh đẹp say đắm. Những vũ công thuộc mọi lứa tuổi tập họp để nhảy múa trước Oganda ngồi sát bên mẹ nàng, âm thầm thổn thức. Tất cả những năm tháng sống cùng những con người này làm nàng nghĩ rằng nàng hiểu họ. Nhưng bây giờ nàng nhận ra nàng là một người lạ giữa họ. Nếu họ yêu thương nàng sao họ không có nỗ lực nào để cứu nàng? Bộ tộc nàng có thực sự hiểu cảm giác chết trẻ là như thế nào không? Không thể kiềm chế cảm xúc nàng khóc nức nở khi nhóm vũ công ở độ tuổi của nàng đứng dậy để nhảy. Họ đều trẻ đẹp và chẳng bao lâu nữa họ sẽ lấy chồng và có nhiều con. Họ có những người chồng để yêu thương và có những túp lều nhỏ cho chính họ. Họ sẽ đạt tới sự chín chắn. Oganda sờ chuỗi xích đeo quanh eo nàng khi nàng nhớ tới Osinda. Nàng ước gì Osinda có mặt ở đó, trong số những bạn bè nàng. “Chắc anh ấy bệnh,” nàng buồn rầu nghĩ. Chuỗi xích làm Oganda cảm thấy an ủi, nàng sẽ chết khi đang đeo nó quanh eo, và nàng sẽ đeo nó ở thế giới trong lòng đất.

Vào buổi sáng một tiệc lớn được tổ chức cho Oganda. Nhóm phụ nữ nấu nhiều món ngon khác nhau để nàng tùy chọn. “Sau khi chết người ta không ăn,” họ nói. Dù thức ăn nhìn thấy thật ngon, nhưng Oganda không đụng tới món nào. Hãy để những người hạnh phúc ăn. Nàng chỉ nhấp nhấp nước lã từ một quả bầu khô nhỏ.

Đã gần tới giờ nàng lên đường, thời gian quý giá đến từng phút. Chặng đường đến hồ đi mất một ngày. Nàng sẽ đi bộ suốt đêm, đi qua khu rừng lớn. Nàng đã được xức dầu thiêng rồi. Từ lúc Oganda nhận được tin buồn nàng lúc nào cũng chờ mong Osinda xuất hiện. Nhưng anh không có mặt. Một người bà con cho nàng biết Osinda đã đi xa để thăm viếng người nào đó. Oganda hiểu rằng nàng sẽ không bao giờ gặp lại người nàng yêu nữa.

Vào buổi trưa toàn thể bộ tộc tập trung đứng ở cổng làng để nói lời chia tay và để nhìn nàng lần cuối. Mẹ nàng gục đầu lên vai nàng khóc một hồi lâu. Đại tù trưởng mặc bộ áo da tang lễ đi chân trần đến cổng, hòa vào đám đông, ông chỉ còn là một người cha bình thường. Ông cởi chiếc vòng tay và đeo vào tay con gái, nói, “Con sẽ luôn luôn sống trong chúng ta. Linh hồn của những tổ tiên ở cùng con.”.

Nghẹn ngào và không tin tưởng Oganda đứng đó trước mọi người. Nàng không có gì để nói. Nàng nhìn lại gian nhà của nàng lần nữa. Nàng nghe được nhịp tim nàng đập đầy đau đớn trong lồng ngực. Mọi dự định thời thơ ấu của nàng đang đi đến điểm kết thúc. Nàng cảm thấy mình như một chồi hoa không còn được hứng sương buổi sớm. Nàng nhìn người mẹ đang khóc thì thầm: “Khi nào mẹ muốn nhìn thấy con, hãy nhìn lên mặt trời lặn, con sẽ ở đó.”.

Oganda quay về hướng nam để bắt đầu hành trình đến hồ nước. Ba mẹ nàng, những người thân thuộc, bạn bè và những người khâm phục nàng đứng ở cổng làng nhìn nàng ra đi.

Thân hình thon thả xinh đẹp của nàng càng lúc càng nhỏ hơn cho tới khi nàng hòa vào những hình cây trong rừng. Khi Oganda đi trên con đường độc đạo luồn vào trong rừng, nàng hát một bài ca, và giọng nói của nàng là bạn đồng hành.

Tổ tiên đã nói rằng Oganda phải chết

Con gái của tù trưởng phải hy sinh

Khi quái vật ở hồ ăn thịt ta

Bộ tộc ta sẽ có mưa

Phải, mưa sẽ đổ xuống xối xả.

Và nước lũ sẽ rửa sạch những bãi cát

Khi con gái của tù trưởng chết trong hồ.

Nhóm người cùng tuổi ta đã bằng lòng

Mẹ cha ta đã bằng lòng

Bạn bè và người thân thuộc của ta

cũng vậy.

Hãy để Oganda chết đem mưa

cho chúng ta

Bạn tuổi ta trẻ trung và trưởng thành,

Chín mùi để trở thành phụ nữ và làm mẹ

Nhưng Oganda phải chết trẻ,

Oganda phải ngủ cùng tổ tiên.

Phải, mưa sẽ tuôn xối xả.

Nắng hoàng hôn đỏ quạch bao trùm Oganda, và nàng trông như một ngọn nến đang cháy trong rừng.

Những người đến nghe bài ca buồn của nàng bị xúc động bởi vẻ đẹp của nàng. Nhưng tất cả họ đều nói như nhau: “Nếu để cứu bộ tộc, nếu để cho chúng ta mưa, thì đừng sợ. Tên cô sẽ sống mãi giữa chúng tôi.”.

Đến nửa đêm Oganda mệt và kiệt sức. Nàng không thể đi tiếp nữa. Nàng ngồi dưới một thân cây lớn, uống chút nước từ bầu nước, đầu dựa vào thân cây và ngủ.

Buổi sáng khi Oganda thức giấc mặt trời đã lên cao. Sau khi đi bộ nhiều giờ, nàng đến dải đất phân cách vùng dân có thể cư trú với vùng đất thiêng. Không người thường nào được vào nơi này và sống mà trở ra - chỉ những ai đã trực tiếp tiếp xúc với thần linh và Đấng Tối cao mới được phép vào thánh địa. Nhưng Oganda buộc phải đi qua vùng đất thiêng này trên đường đến hồ, nơi mà nàng sẽ đến vào buổi hoàng hôn.

Một đám đông lớn đã tụ tập để nhìn nàng lần cuối. Giọng nàng bây giờ khàn và đau, nhưng không cần phải lo lắng nữa. Chẳng bao lâu nữa nàng sẽ không phải hát. Đám đông nhìn Oganda thông cảm, thì thầm với nhau những lời nàng không nghe được. Nhưng không ai trong số họ rời khỏi đám đông mà chạy đến phía nàng. Một đứa bé cầm trong bàn tay đẫm mồ hôi của nó một chiếc khuyên tai đưa cho Oganda nói, “Khi chị đến thế giới của người chết, chị đưa chiếc khuyên tai này cho chị của em. Chị ấy đã chết hồi tuần trước. Chị ấy để quên chiếc khuyên tai này.”. Oganda tiếp nhận yêu cầu lạ lùng, cầm lấy chiếc khuyên tai nhỏ, và đưa phần nước và lương thực quý giá của nàng cho đứa bé. Bây giờ nàng không cần đến chúng nữa. Oganda không biết nên cười hay khóc. Nàng đã nghe những người mất người thân gửi tình yêu thương của họ đến những người thân đã chết từ lâu, nhưng ý tưởng gửi quà này là mới đối với nàng.

Oganda nín thở khi vượt qua thanh chắn để vào vùng đất thiêng. Nàng nhìn với vẻ van lơn về phía đám đông, nhưng không có gì đáp ứng. Đầu óc của họ cũng không còn gì khác ngoài suy nghĩ về sự tồn tại của chính họ. Mưa là liều thuốc quý giá nhất họ đang khao khát, và vì vậy Oganda càng gần đến đích thì càng tốt.

Một cảm giác lạ lùng xâm chiếm Oganda khi nàng tiếp bước trên vùng đất thiêng. Có những tiếng động lạ thường làm nàng giật mình. Nhưng nàng nhớ rằng nàng phải thỏa mãn mong muốn của bộ tộc nàng. Nàng đã kiệt sức, nhưng con đường vẫn đang uốn lượn. Rồi đột ngột con đường kết thúc tại một vùng cát. Nước đã rút xa bờ nhiều dặm để lại một vùng cát rộng. Bên kia vùng cát này là mênh mông nước.

Oganda cảm thấy sợ. Nàng muốn biết kích cỡ và hình dạng của con quái vật, nhưng sợ hãi. Cộng đồng không nói về nó, mà những trẻ em đang khóc cũng không im tiếng khi nghe nhắc đến nó. Mặt trời vẫn còn, nhưng trời không còn nóng. Trong một hồi lâu chân Oganda bước trên cát lún tới mắt cá. Nàng hết sức mệt và rất thèm bầu nước của nàng. Khi nàng đi tới, nàng có cảm giác có gì đó đang đi theo nàng. Có phải đó là con quái vật? Tóc nàng dựng đứng, và một cảm xúc gây tê liệt lạnh ngắt chạy dọc sống lưng nàng. Nàng nhìn lại sau lưng, hai bên và phía trước, nhưng không thấy gì, ngoại trừ một đám bụi bốc lên.

Oganda cố gắng bình tĩnh và bước nhanh nhưng cảm giác đó không rời bỏ nàng, toàn thân nàng toát mồ hôi ướt đẫm.

Mặt trời đang lặn nhanh và bờ hồ như chuyển động cùng với nó.

Oganda bắt đầu chạy. Nàng phải đến hồ trước khi mặt trời lặn. Trong khi chạy nàng nghe có tiếng động vang lên từ phía sau. Nàng quay phắt lại, và thấy một vật giống như một bụi cây chuyển động rõ ràng là đang chạy theo nàng. Nó gần bắt kịp nàng.

Oganda chạy hết tốc lực. Bây giờ nàng quyết định sẽ ném mình xuống hồ trước khi mặt trời lặn. Nàng không nhìn lại, nhưng sinh vật đó sắp bắt kịp nàng. Nàng ráng sức la lớn, như trong cơn ác mộng, nhưng nàng không nghe thấy giọng của mình. Sinh vật đó đã bắt kịp nàng. Trong lúc rối loạn khi Oganda đối diện với sinh vật không xác định được là gì, một bàn tay rắn chắc chụp nàng. Nhưng nàng ngã bật ra nền đất và ngất.

Khi gió hồ thổi làm nàng tỉnh lại, một người đàn ông đang cúi xuống nhìn nàng. Oganda mở miệng nói, nhưng giọng nàng đã mất. Nàng nuốt ngụm nước do người lạ rót vào miệng nàng.

“Osinda, Osinda! Để cho em chết. Để em chạy, mặt trời đang lặn. Để em chết, cho họ có mưa.” Osinda mơn man chuỗi xích lấp lánh quanh eo của Oganda và lau nước mắt trên mặt nàng.

“Mình phải trốn nhanh đến vùng đất không ai biết,” Osinda hấp tấp nói. “Mình phải trốn sự phẫn nộ của tổ tiên và sự trả thù của con quái vật.”.

“Nhưng lời nguyền đã dành cho em, Osinda, em không còn tốt đẹp cho anh nữa. Hơn nữa mắt của tổ tiên sẽ dõi theo chúng ta bất kỳ nơi đâu và vận rủi sẽ đổ xuống chúng ta. Mình cũng không thể thoát khỏi con quái vật.”

Oganda vùng ra, nhưng Osinda lại nắm tay nàng.

“Nghe anh, Oganda! Nghe anh! Có hai tấm áo lá giả trang đây!”. Anh trùm lên toàn thân Oganda một tấm áo lá làm bằng những nhánh cây. “Áo này sẽ che chúng ta khỏi mắt của tổ tiên và sự phẫn nộ của quái vật. Bây giờ mình hãy chạy thoát khỏi chỗ này.” Anh cầm tay Oganda và từ vùng đất thiêng họ chạy đi, tránh con đường mà Oganda đã đi qua.

Rừng rậm dày, cỏ cao vướng chân họ trong khi họ chạy. Được nửa chặng đường họ dừng lại ngoái nhìn. Mặt trời đã xuống gần mặt nước. Họ sợ. Họ tiếp tục chạy, bây giờ nhanh hơn để tránh lúc mặt trời lặn.

“Hãy tin tưởng, Oganda - quái vật đó sẽ không theo được chúng ta.”

Khi họ đến chỗ thanh chắn và nhìn lại phía sau họ run lên, chỉ còn một chút mặt trời trên mặt nước.

“Mặt trời lặn rồi! Mặt trời lặn rồi!”

Oganda khóc, giấu mặt trong hai bàn tay.

“Đừng khóc, con gái của tù trưởng. Chúng ta hãy chạy, hãy thoát thân.”

Có ánh chớp. Họ nhìn lên trời, sợ hãi. Trên đầu họ những đám mây cuồn cuộn bắt đầu tràn về. Họ bắt đầu chạy. Rồi tiếng sấm gầm lên, và mưa tuôn xối xả.

Truyện ngắn. Grace Ogot (Kenya)

Võ Hoàng Minh (dịch)

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Bí mật về ông chủ Cornille

Văn học nước ngoài 2 ngày trước

Chiếc tù và

Văn học nước ngoài 2 tuần trước

Anh ở đâu, tình yêu của em?

Văn học nước ngoài 2 tuần trước

Con hổ nhà thơ

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Cái chết đến cùng với sự thừa kế

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Kỳ nghỉ trăng mật

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Nạn châu chấu ở vùng Sahel

Văn học nước ngoài 1 tháng trước