Chủ nhật, ngày 23 tháng 02 năm 2025
09:42 (GMT +7)

Một bài học

Đêm hôm kia, tôi có một giấc mơ lạ lùng. Tôi ngồi ở ô cửa (ở một thành phố nào đó) tư lự. Lúc đó hình như là 12 hoặc 1 giờ sáng. Trời êm dịu, dễ chịu. Không có ai, không có bước chân nào trên đường. Không có âm thanh nào phá vỡ sự im lặng tuyệt đối, ngoại trừ tiếng chó sủa vu vơ xa xa và tiếng sủa đáp lại của một con chó nào đó. Tôi bỗng nghe có tiếng lốp cốp trên đường và tôi đoán đó là tiếng của nhạc cụ castanet của một bữa tiệc đêm. Một phút sau, tôi thấy có một bộ xương cao, đội mũ trùm đầu, mang một tấm vải liệm cũ kỹ và tả tơi, bay phần phật, bước những bước dài đi về phía tôi rồi mất dạng trong ánh sáng mờ đục của các vì sao. Trên vai bộ xương là một chiếc quan tài mục ruỗng, trên tay bộ xương đang cầm một bó gì đó. Tôi sau đó nhìn thấy rõ bộ xương. Các khớp của nó chuyển động và khuỷu tay nó vung vẩy khi nó bước đi. Tôi có thể nói là tôi ngạc nhiên. Trước khi tôi hoàn hồn và tự vấn về điềm báo của sự xuất hiện kỳ lạ này, tôi nghe có tiếng chân lốp cốp đi tới. Ông ta vác một chiếc hòm chỉ còn hai phần ba chiều dài, tay cầm vài bàn chân và xương sọ. Tôi mạnh dạn ngó vào mũ trùm đầu của ông ta và nói chuyện với ông ta. Khi ông ta quay qua cười toe toét với tôi, với hai hốc mắt sâu, tôi biết là tôi không nên bỏ đi. Khi ông ta vừa bỏ đi thì có tiếng bước chân khác tiến tới trong ánh sáng mờ mờ. Người này vác một tấm bia mộ đá nặng trịch, tay kéo một chiếc quan tài cũ sờn bằng một sợi dây. Ông này nhìn kỹ tôi trong chốc lát, sau đó tiến tới nói với tôi: “Anh đỡ cái này xuống giúp tôi được không?”.

Một bài học

Khi tôi đỡ tấm bia mộ xuống và đặt ngay ngắn trên đất, tôi thấy có dòng chữ: John Baxter Copmanhurst, mất tháng 5/1839. Ông mệt mỏi ngồi xuống bên tôi và chùi các hốc nằm trong xương hàm to. Tôi nghĩ đây là thói quen cũ vì tôi không thấy ông ra mồ hôi.

“Tệ lắm, tệ lắm!”, ông nói, tay kéo phần còn sót lại của tấm vải liệm quấn quanh người và chống cằm suy tư. Sau đó, ông đặt bàn chân trái trên đầu gối và cào xương mắt cá một cách chểnh mảng bằng một chiếc đinh sét gỉ ông lấy ra từ quan tài.

“Tệ làm sao, ông bạn?”.

“Ồ, mọi thứ đều tệ. Tôi ước tôi đừng chết”.

“Anh làm tôi ngạc nhiên. Tại sao anh nói thế? Có điều gì đó trở nên xấu đi sao? Có chuyện gì vậy anh?”. “Chuyện gì ư? Hãy nhìn vào tấm vải liệm rách nát này! Hãy nhìn vào tấm bia mộ mòn vẹt này! Hãy nhìn vào chiếc quan tài đáng ghét này! Tất cả tài sản của một con người đã đổ nát và hư hoại trước mắt họ và hãy hỏi họ điều gì đã trở nên tồi tệ! Tất cả đã bị tra tấn trong địa ngục!”.

“Xin bình tĩnh, xin hãy bình tĩnh!”, tôi nói. “Chúng thật tệ hại, chắc chắn là vậy nhưng tôi không cho là anh quan tâm đến chúng trong hoàn cảnh của anh”.

“Hừ, anh bạn, tôi thật sự quan tâm đến chúng. Sự kiêu hãnh của tôi đã bị tổn thương, sự an yên của tôi đã bị xúc phạm, tôi có thể nói như vậy. Tôi sẽ nhận định về trường hợp của tôi, sẽ giải thích cho anh hiểu, nếu anh cho phép”, bộ xương khốn khổ nói. Ông hất mũ trùm đầu ra sau, như thể để chuẩn bị hành động, và do đó, vô tình làm cho ông có vẻ vui vẻ, là cái trái ngược với tình cảm và tâm trạng của ông.

“Ông hãy nói!”, tôi nói.

“Tôi định cư ở một nghĩa trang xấu hổ cách đây 1, 2 khối nhà. Ở đó, tôi thấy xương sụn tôi rụng hết, chiếc xương sườn thứ ba từ dưới lên treo lòng thòng vào xương sống bằng một sợi dây. Nếu anh cũng bị vậy thì sợi dây, nếu là dây bằng bạc thì sẽ thích hơn, bền hơn một khi nó còn được giữ cho sáng bóng. Rồi anh sẽ nghĩ tới việc tôi bị tả tơi thế này, chỉ vì hậu thế lơ là, bàng quan!”. Sau đó, con ma khốn đốn nghiến răng, làm tôi run sợ và càng thấy sợ hơn do nó không còn da thịt và biểu bì. “Tôi sống ở nghĩa trang đó đã 30 năm. Mọi thứ thay đổi kể từ khi tôi đặt chiếc quan tài sang một bên, nghiêng người và thẳng chân để ngủ li bì, với cảm giác lo âu, bồn chồn, sợ hãi mãi mãi. Tôi bồi hồi trông chờ ông giữ nghĩa trang, từ lúc ông ta cuốc nhát cuốc đầu tiên để nâng quan tài lên, cho đến khi ông ta phủ cho nó một lớp mạ mỏng, để làm mái nhà mới cho tôi. Tôi ước anh có thể thử ngủ ở đó đêm nay”. Tôi đang mơ màng lắng nghe thì kẻ chết lấy bàn tay xương xẩu tát tôi một cái tách.

“Vâng, thưa anh! Ba mươi năm trước, tôi nằm đó và thấy hạnh phúc. Lúc đó xung quanh tôi là rừng, với hoa, gió nhẹ, các làn gió lười biếng đùa chơi với cây lá, các chú sóc nhảy nhót quanh chúng tôi. Nhiều thứ dịu dàng mời gọi chúng tôi, chim chóc hiền hòa ca hát quanh chúng tôi. Mười năm đầu sau khi tôi chết, là như thế đó! Mọi thứ đều vui tươi. Tôi có hàng xóm tốt bụng vì những người chết nằm quanh tôi đều xuất thân từ các gia đình tử tế trong thành phố. Hậu thế còn nghĩ đến chúng tôi. Họ chăm sóc mồ mả, sửa sang hàng rào, sơn sửa bia mộ hoặc rửa ráy chúng, thay thế chúng nếu chúng bị mục hoặc hư hỏng, bia tưởng niệm được giữ cho ngay ngắn, rào chắn thì sáng sủa, hoa hồng và cây bụi được cắt tỉa, tránh bị hư hại, tường thì sạch sẽ và thẳng thớm và được ốp sỏi. Nhưng những tháng ngày đó đã qua. Con cháu đã quên chúng tôi.

Cháu tôi sống trong một ngôi nhà sang trọng được xây bằng tiền do tay tôi làm ra. Giờ tôi đang nằm trong một ngôi mộ xộc xệch, đầy mối, những con bọ ký sinh, chúng đang gặm nhấm tấm vải liệm của tôi để xây tổ. Tôi và các bạn tôi ở đây là những người đã sáng lập và bảo trợ cho hậu sinh ở thành phố xinh đẹp này, thế nhưng họ để mặc chúng tôi trong nghĩa trang đổ nát, làm cho hàng xóm của tôi và những người xa lạ phải nguyền rủa. Hãy so sánh xưa và nay! Mộ chúng tôi bây giờ tất cả đã đổ sụp, các tấm ván đặt ở đầu mộ đã mục ruỗng và đổ nát; hàng rào đã lắc lư, chổng gọng, do không được sửa sang; bia tưởng niệm mệt mỏi cúi xuống; bia mộ chán nản gục đầu; không có bất cứ sự trang hoàng nào - không có hoa hồng, không cây bụi, không lối đi rải sỏi, không có gì ưa nhìn; ngay cả hàng rào cũng không được sơn, chỉ là các tấm ván để ngăn cản động vật và các bước chân vô ý làm ô uế các phần mộ. Chúng đã lung lay, ngã nhoài ra đường; bảng thông tin về nghĩa trang u buồn nơi chúng tôi nằm, có ghi lời mời đến thăm, giờ trông như một thứ để nhạo báng. Bây giờ, chúng tôi không thể che giấu được sự rách nát của chúng tôi khi còn ở trong cánh rừng thân yêu này vì thành phố đã vươn cánh tay khô khốc của nó ra, vây hãm chúng tôi. Tất cả niềm vui còn lại của chúng tôi là các khóm cây của khu rừng thê lương đang mệt mỏi, với chân đặt quanh mộ chúng tôi, mắt nhìn xa xa, muốn đi đến nơi đó. Tôi muốn nói với anh rằng, tất cả thật vô vọng”.

“Anh đã bắt đầu hiểu, đã bắt đầu biết sự thể. Trong khi con cháu chúng tôi đang sống xa hoa bằng tiền của chúng tôi ngay trong thành phố bên cạnh, chúng tôi phải vật lộn để xương và sọ không bị rớt ra. Anh à, không có ngôi mộ nào trong nghĩa trang này không bị thủng. Mỗi khi có mưa trong đêm, chúng tôi phải leo lên, đến trú dưới các gốc cây, thi thoảng chúng tôi run rẩy vì mưa lạnh đổ xuống cổ chúng tôi. Nói thật, chúng tôi đã đạp các ngôi mộ, đá đổ các tấm bia tưởng niệm, mang các bộ xương khô chạy nháo nhào để núp mưa dưới các tán cây. Chao ôi, nếu đến đó vài đêm, sau 12 giờ, anh sẽ thấy có đến chừng 15 người trong chúng tôi đứng một chân, các khớp kêu lắc rắc và gió thở khò khè trong xương sườn chúng tôi. Nhiều khi chúng tôi phải núp mưa 3, 4 giờ liền, sau đó, xuống lại mộ, chịu mệt mỏi, phờ phạc, mượn sọ của nhau để tát nước trong mộ ra. Nếu anh nhìn vào miệng tôi khi tôi ngả đầu ra, anh sẽ thấy trong hộp sọ tôi có một nửa là cặn khô, do đó, thi thoảng tôi bị mụ mị. Vâng, thưa anh, nếu thi thoảng anh đến đó trước bình minh, anh sẽ thấy chúng tôi đang tát mộ, vải liệm phơi trên hàng rào. Một sáng nọ, tôi bị trộm mất tấm vải liệm. Người trộm có tên là Smith, đang ở tại một nghĩa trang bình dân bên kia. Tôi nghĩ thế vì lần đầu tiên gặp anh ta, tôi thấy anh ta chẳng mặc gì, ngoài một cái áo carô. Lần sau, khi gặp anh ta trong một buổi tụ tập ở một nghĩa trang mới, tôi thấy anh ta ăn vận sang nhất. Chứng cứ đáng tin nữa là anh ta chuồn khi vừa thấy tôi. Gần đây, một phụ nữ già ở đây bị mất quan tài. Bà thường mang theo quan tài khi đi vì bà sợ bị cảm lạnh và bị thấp khớp, là những thứ có thể giết chết bà nếu bà phơi người trong đêm lạnh. Bà ấy tên là Hotchkiss - Anna Matilda Hotchkiss - anh có lẽ biết bà ấy? Bà ấy có hai chiếc răng cửa dài và khá cong, một chiếc xương sườn bên trái bị mất, một mớ tóc khô khốc lủng lẳng bên đầu trái, một mớ tóc ở đầu trước, một nhúm tóc nằm bên tai phải, hàm dưới bà chành sang một bên khi bà nhai, cẳng tay trái bà bị mất trong một cuộc ẩu đả, làm cho bà có dáng vênh vang khi bước đi, trông lắc lư khi bà chống nạnh. Nghỉnh mũi lên trời là lúc bà trông khá thoải mái, tự tại. Tất cả con người bà đã bị phá hủy, như một thùng gỗ bị mục nát. Anh đã gặp bà ấy chưa?”.

“Ối trời!”, tôi tự động thốt ra, không hiểu sao tôi chểnh mảng, không chú ý đến câu hỏi của ông ấy. Nhưng tôi nhanh chóng hối lỗi và nói, “Tôi đơn giản không có ý khiếm nhã với bạn anh. Anh vừa nói là anh bị chôm áo, đây là điều xấu hổ nhưng có vẻ chiếc áo liệm anh đang mặc đắt tiền lắm phải không? Làm thế nào...?”.

Vẻ mặt của con ma nhanh chóng nở ra rồi co lại. Tôi bắt đầu thấy lo lắng. Khi kể, ông ta cười bí hiểm, ngặt ngoẽo. Ông kể về việc ông có được tấm vải liệm hiện tại từ một con ma ở nghĩa trang bên cạnh. Điều này làm tôi yên tâm nhưng tôi mong ông ta hạn chế kể về việc đó, vì tôi thấy nét mặt ông ta không đáng tin. Cần cẩn trọng, đừng làm cho lửa cháy. Cần đặc biệt tránh cười. Những gì ông ta thành thật cho là thành công lớn cũng có thể làm cho tôi hiểu khác đi. Tôi nói tôi thích một bộ xương vui vẻ, hồ hởi nhưng tôi không nghĩ nếu tôi cười thì tôi sẽ kiểm soát được bộ xương một cách tốt nhất.

“Vâng, anh bạn!”, bộ xương khốn khổ nói, “Sự thật là như tôi đã kể. Có hai nghĩa trang cũ, một là cái tôi đang nằm còn cái kia thì ở xa hơn. Con cháu chúng tôi đã lãng quên chúng, không còn quan tâm gì nữa. Ngoài việc xương cốt khó chịu, và đây không phải là vấn đề nhỏ khi trời mưa, mọi thứ khác hiện nay đều đang tàn tệ. Chúng tôi phải đau khổ hoặc bằng lòng nhìn tài sản của chúng tôi bị hủy hoại. Anh khó mà tin nhưng thực sự là, không còn chiếc quan tài nào của những người tôi quen biết là không bị mục ruỗng. Đó là sự thật. Tôi không nói về giới hạ lưu, đến nghĩa trang bằng quan tài gỗ thông, do xe ngựa kéo. Tôi nói về những chiếc quan tài làm bằng đá, dát bạc, của kẻ đáng kính, đến nghĩa trang trong đoàn đưa tang với quan tài có gắn lông đen, được chôn ở mảnh đất đẹp. Tôi muốn nói với những người như gia đình Jarvises, Bledsoes và Burlings, vân vân. Tất cả mộ của họ đã bị mục nát. Họ là những người giàu có nhất ở đây. Giờ hãy nhìn vào mộ họ, tất cả đã tan tành. Một người quá cố trong gia đình Bledsoes đi bán bia tưởng niệm cho một ông chủ quán bar đã mất để mua một miếng gỗ tươi để làm gối nằm.

Tôi cho rằng, đó là vấn đề lớn, vì đối với một kẻ chết, không có gì đáng quý hơn là bia tưởng niệm. Ông ấy thích đọc các dòng chữ trên bia! Ông tin vào những lời người ta viết về ông trên tấm bia. Anh có thể thấy ông hàng đêm ngồi trên hàng rào thích thú đọc. Văn bia là quan trọng và họ ca ngợi ông sau khi ông chết, đặc biệt là vì ông có vận đỏ khi còn sống. Tôi nghĩ ông ta hoàn toàn chấp nhận điều đó. Tôi giờ không phàn nàn nhưng tôi tin rằng con cháu tôi khá đê tiện, chẳng trao cho tôi cái gì, ngoài một tấm bia mộ cũ kỹ, không có một lời ca ngợi. Trên tấm bia có dòng chữ: ĐI VỀ NƠI CÓ PHẦN THƯỞNG XỨNG ĐÁNG. Lần đầu tiên đọc nó, tôi tự hào nhưng dần dà, tôi để ý thấy là bất cứ khi nào ông bạn cũ của tôi đến, ông sẽ đặt cằm trên hàng rào, xùi mặt và đọc, sau đó ông chậc lưỡi và bỏ đi, vẻ hài lòng, thỏa thê. Do vậy, tôi cạo hết chữ trên bia mộ và vứt nó đi. Người chết luôn kiêu hãnh về những gì ghi trên bia tưởng niệm. Đằng kia là một tá các bia tưởng niệm của gia đình Jarvises. Con ma Smithers và vài con ma khác vừa đi qua tôi và bộ xương. “Xin chào, Higgins, ông bạn cũ!”. Đó là ông Meredith Higgins, mất năm 44, nằm cùng nghĩa trang với tôi, gia đình ông tử tế, bà cố là bà Injunn. Tôi rất thân với ông ấy. Ông ấy không trả lời tôi vì ông ấy không nghe được lời chào của tôi. Tôi lấy làm tiếc nhưng tôi muốn giới thiệu anh với ông ấy. Anh sẽ ngưỡng mộ ông ấy. Ông ấy đã rời rạc, lắc lư, nói chung là chỉ còn bộ xương khô méo mó nhưng ông ấy rất vui tính. Ông ấy cười, như hai viên đá được cọ xát vào nhau, khi ông ấy bắt đầu nói, ông ấy luôn thét lên, nghe như người ta cào móng tay vào cửa.

Một bài học

“Xin chào, Jones!”. Đây là ông bạn cũ Columbus Jones. Áo quan ông ấy có giá 400 đô la, toàn bộ vật dụng của ông, gồm cả bia tưởng niệm trị giá 2 ngàn 700 đô la. Ông ấy mất mùa xuân năm 26. Đó là phong cách thời đó. Người chết từ khắp nơi ở Allegheenies đến xem đồ đạc, áo xống của ông ấy. Người ở nghĩa trang bên cạnh tôi nhớ rõ điều này. Giờ anh có thấy người đang bước đi, nách cặp miếng ván, chân cụt tới gối, không còn gì trên đời không? Đó là Barstow Dalhouste, nằm bên cạnh Columbus Jones. Ông ấy ăn vận xa hoa nhất khi vào nghĩa trang chúng tôi. Chúng tôi đang bị bỏ rơi. Chúng tôi không thể tha thứ cho cách cư xử của con cháu chúng tôi. Chúng lập nhiều nghĩa trang mới nhưng để mặc chúng tôi trong hổ thẹn. Chúng sửa sang đường sá nhưng chẳng bao giờ sửa sang những thứ thuộc về chúng tôi, xung quanh chúng tôi. Hãy nhìn vào quan tài của tôi. Trước đây, nó là một mẩu gỗ của đồ đạc thu hút sự chú ý, trong bất cứ phòng khách nào trong thành phố. Anh thích thì tôi cho anh, tôi không muốn sửa nó. Chỉ cần đóng đáy, lắp nắp, quàng một tấm vải sáng dọc theo bên trái là anh có thể dùng nó thoải mái như anh muốn. Không, cảm ơn! Tôi không muốn đề cập đến nó. Anh có quyền công dân hơn tôi. Tôi sẽ trao anh toàn bộ tài sản của tôi trước khi tôi có vẻ vô ơn. Đây là tấm ván chắn gió, thuộc loại tốt, nếu anh cần...”.

“Không? Vâng, nếu anh muốn... Nhưng tôi muốn có tự do và sự công bằng. Tôi không bủn xỉn. Tạm biệt, anh bạn, tôi phải đi. Tôi có đường đi đêm nay không? Tôi không biết. Tôi chỉ chắc một điều là tôi giờ lang thang, không bao giờ ngủ ở cái nghĩa trang điên khùng đó nữa. Tôi sẽ đi cho tới khi tôi tìm ra một khu phố ma trên đường cuốc bộ tới New Jersey. Tất cả mọi người đều đã đi. Quyết định di cư đã được đưa ra trong cuộc họp riêng tối qua. Vào lúc mặt trời mọc, sẽ không còn ai ở lại nơi ở cũ. Các nghĩa trang có thể thích hợp cho những người bạn còn sống của tôi nhưng không thích hợp với những người đã chết là những người tôi đã kể. Ý kiến của tôi cũng là ý kiến chung. Nếu anh ngờ vực, anh có thể đến đó, sẽ thấy những con ma ra đi đang bận bịu sửa sang hành lý ra sao. Họ rối loạn lên vì muốn biểu thị sự chán ghét. Kia là một số người trong gia đình Bledsoes. Nếu anh giúp tôi nâng lên tấm bia mộ này, tôi đoán tôi có thể gia nhập vào nhóm của họ và cuốc bộ với họ. Họ là một gia đình đáng kính, từng thường đi trên xe tang 6 ngựa và các loại xe ngựa như thế 50 năm về trước, khi tôi còn bước trên các con phố “Tạm biệt, anh bạn!”.

Và với tấm bia mộ trên vai, ông gia nhập đám các con ma rùng rợn, kéo quan tài phía sau. Mặc dù ông nhiệt tình cho tôi chiếc quan tài, tôi vẫn hoàn toàn từ chối sự thân thiện đó của ông. Trong hai giờ liền, đám các con ma bị ruồng bỏ lúc lắc bước đi, trên người nặng trĩu những thứ tồi tàn. Tôi ngồi thương xót họ. Một hai người trẻ và vài người già nhất muốn đi bằng tàu đêm nhưng những người còn lại không quen với phương tiện đó, chỉ muốn đi bằng các con đường công cộng dẫn đến các thị trấn và thành phố. Một vài thành phố và thị trấn này giờ đã không còn trên bản đồ, mất tích chừng 30 năm trước và một số chúng chưa bao giờ hiện diện, chỉ có trên bản đồ hoặc chỉ là bất động sản cá nhân mà thôi. Họ đòi hỏi các điều kiện tốt cho các nghĩa trang trong các thành phố và thị trấn đó và muốn cư dân ở đó biết kính trọng kẻ chết.

Câu chuyện làm tôi xúc động, và do đó, tôi đồng cảm với những bóng ma không nhà. Tất cả như thật, không phải trong giấc mơ. Tôi nói với một bóng ma mặc áo liệm lang thang ý tưởng hình thành trong đầu tôi là tôi sẽ viết một truyện kể kể lại cuộc ra đi u buồn và nghiêm trọng này. Nhưng tôi cũng nói với anh ta là tôi không thể kể hết sự thật, như nó đã xảy ra, không coi thường chủ đề quan trọng và không biểu thị sự thiếu kính trọng đối với kẻ chết là những người đã gây sốc và đau khổ cho tôi và một số người khác nhưng người công dân đáng kính cũ của thành phố dựa vào cửa nhà tôi và thì thào vào tai tôi: Đừng để điều đó làm phiền anh! Cộng đồng nào chấp nhận những nghĩa trang như những cái mà chúng tôi phải bỏ đi sẽ chấp nhận bất cứ lời nào người ta nói về những kẻ chết bị lãng quên!

Ngay lúc đó, gà gáy và đoàn ma biến mất; không bỏ lại một mảnh vải hay khúc xương nào. Tôi tỉnh giấc và thấy đầu mình thòng ra khỏi giường và đang suy tư. Đó là tư thế thích hợp để mơ những giấc mơ về tiêu chuẩn xử thế chứ không phải là mơ những giấc mơ thơ mộng.

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Những con ki gỗ trong trò chơi Bowling

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Người chết

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Lần này tôi say quá rồi

Văn học nước ngoài 2 tháng trước

Mối tình si của người thiếu nữ

Văn học nước ngoài 2 tháng trước

Bí mật về ông chủ Cornille

Văn học nước ngoài 3 tháng trước

Chiếc tù và

Văn học nước ngoài 3 tháng trước

Anh ở đâu, tình yêu của em?

Văn học nước ngoài 3 tháng trước