Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024
10:56 (GMT +7)

Cái cân của gia đình nhà Balek

Truyện ngắn. Heinrich Böll (Đức)

Hầu hết những người sống ở quê ông tôi đều kiếm sống bằng công việc ở những chiếc máy tuốt lanh. Từ năm đời nay, họ hít vào thứ bụi bay lên từ những thân cây lanh bị kẹp vỡ ra từng mảnh, để giết chết mình từ từ, những thế hệ nhẫn nại và vui tươi đã ăn pho mát dê, khoai tây, thỉnh thoảng giết thịt một con thỏ nhà; buổi tối họ xe sợi và đan trong những phòng khách nhà mình, ca hát, uống trà bạc hà và hạnh phúc.

Ban ngày họ mang lanh đến chỗ những cỗ máy cũ rích không có gì che chắn nhả bụi và phả ra hơi nóng bắt nguồn từ những lò sấy. Trong những phòng khách nhà họ có một chiếc giường dạng tủ dành riêng cho bố mẹ, còn bọn trẻ con thì ngủ ở xung quanh trên những chiếc ghế băng. Buổi sáng những phòng khách nhà họ đầy mùi súp bột chưng(1); vào những ngày Chủ nhật có món sterz(2), và những gương mặt bọn trẻ đỏ ửng lên vì vui sướng, nếu vào những ngày lễ đặc biệt thứ cà phê hạt dẻ màu đen chuyển sang màu vàng lạt, càng ngày càng vàng lạt hơn bởi sữa mà mẹ mỉm cười đổ vào những bình cà phê của chúng.

Bố mẹ đi làm sớm, việc nhà được giao lại cho bọn trẻ: chúng quét phòng khách, dọn dẹp, rửa bát đĩa và gọt vỏ khoai tây, những củ khoai quý giá vàng vàng mà bọn trẻ cần phải đưa ra lớp vỏ mỏng của chúng để xua tan mối nghi ngờ về việc có thể lãng phí hoặc gọt qua loa.

Khi bọn trẻ đi học về thì chúng cần phải đi vào các cánh rừng - tùy theo mùa - thu lượm nấm và thảo mộc: xa diệp thảo, húng tây, thì là, bạc hà, cả mao địa hoàng nữa; và trong mùa hè, khi bọn trẻ thu hoạch cỏ trên những đồng khô cằn thì chúng thu lượm cả hoa cỏ khô.

Một xu là giá một cân hoa cỏ khô và sẽ được bán với giá hai mươi xu một cân ở trong thành phố tại các hiệu thuốc tới tay những người phụ nữ dễ bị dị ứng phấn hoa. Những chiếc nấm quý giá: chúng có giá hai mươi xu một cân và sẽ được bán với giá một mác(3) hai mươi xu ở các cửa hàng trong thành phố. Trong mùa thu bọn trẻ bò sâu vào bóng tối màu xanh của những cánh rừng, khi sự ẩm ướt thúc đẩy nấm mọc lên từ đất.

Những cánh rừng là của gia đình nhà Balek, cả những máy tuốt lanh cũng vậy, gia đình nhà Balek có một lâu đài ở quê ông tôi, và bên cạnh bếp sữa(4) bà vợ của chủ gia đình luôn có một căn phòng nhỏ mà trong đó nấm, thảo mộc, hoa cỏ khô được cân và được trả tiền. Ở đó, trên bàn có cái cân to của gia đình nhà Balek, một đồ vật cổ lỗ sĩ, trang trí công phu, được tô vẽ bằng màu đồng vàng, trước nó ông bà tổ của tôi đã đứng, những chiếc giỏ có nấm, những chiếc bao giấy có hoa cỏ khô trong những đôi bàn tay trẻ con bẩn thỉu, chăm chú nhìn bà Balek cần phải ném bao nhiêu quả cân lên chiếc cân cho đến khi cái kim đang dao động đứng đúng vạch đen, đúng đường kẻ mảnh này của sự công bằng mà mỗi năm cần phải được vạch mới. Sau đó bà Balek lấy quyển sổ to bọc da, ghi trọng lượng vào và thanh toán tiền. Những đồng một xu và đồng mười xu - rất - rất hiếm khi mới có một đồng một mác. Khi ông tôi còn là một đứa trẻ thì ở đó để một chiếc bình thủy tinh lớn có những chiếc kẹo sạch sẽ có giá một mác một cân, và khi bà Balek - người hồi ấy quản lý căn phòng nhỏ, vui vẻ sẽ thò tay vào trong chiếc bình này cho mỗi đứa trẻ một cái kẹo. Và những gương mặt bọn trẻ đỏ ửng lên vì vui sướng như khi vào những ngày lễ đặc biệt mẹ đổ vào những bình cà phê của chúng thứ sữa làm cà phê chuyển sang màu vàng lạt, càng ngày càng vàng lạt hơn, cho đến khi nó có màu vàng hoe như những bím tóc của các cô gái.

Một trong những quy tắc mà gia đình nhà Balek đưa ra cho làng nêu rõ: Không ai được phép có cân trong nhà. Quy tắc cổ, nên không còn ai ngẫm nghĩ về việc tại sao và khi nào nó ra đời nữa, và nó cần phải được tôn trọng, vì nếu ai vi phạm quy tắc sẽ bị đuổi khỏi chỗ những cỗ máy tuốt lanh, anh ta sẽ không còn được mua lại nấm, húng tây, hoa cỏ khô nữa, và quyền lực của gia đình nhà Balek vươn xa nên cũng không có ai ở những làng lân cận đem lại việc làm cho anh ta, không ai mua lại thảo mộc của rừng cho anh ta. Từ khi ông bà tổ của tôi là những trẻ nhỏ đã thu lượm nấm và bán chúng - không ai nghĩ đến việc vi phạm quy tắc này, và chiếc cân cổ lỗ sĩ được trang trí bằng màu đồng vàng của gia đình nhà Balek không gây ấn tượng rằng nó không chính xác, và năm thế hệ đã phó thác cho chiếc kim màu đen đang dao động những gì mà họ đã thu lượm ở trong rừng với sự hăng hái của trẻ thơ.

Tuy rằng giữa những con người lầm lì này cũng có những người coi thường quy tắc, những kẻ săn bắn trộm, những kẻ muốn trong một đêm kiếm được nhiều tiền hơn cả tháng họ có thể kiếm được ở trong nhà máy lanh, nhưng trong số này có vẻ như cũng không ai có ý nghĩ mua cho mình một cái cân hay là chế tạo nó.

Ông tôi là người đầu tiên đủ can đảm kiểm tra sự công bằng của gia đình nhà Balek, những người đang sống trong lâu đài, có hai xe ngựa, những người mà trả tiền học thần học ở chủng viện Praha cho một thanh niên của làng, những người mà mỗi thứ Tư mục sư đến chơi bài tarot ở nhà họ, những người mà quận trưởng - phù hiệu hoàng đế gắn trên xe ngựa - đến thăm vào dịp năm mới, và những người mà hoàng đế đã phong quý tộc vào dịp năm mới năm 1900.

Ông tôi chăm chỉ và thông minh: ông tiếp tục bò sâu vào trong những cánh rừng khi những đứa trẻ trong dòng họ đã bò trước ông, ông đi sâu vào rừng cây bụi, trong đó chắc hẳn theo truyền thuyết có Bilgan, người khổng lồ sống, người mà canh giữ kho báu của gia đình nhà Balderer ở đó. Nhưng ông tôi không sợ Bilgan: ông đi thật sâu vào rừng cây bụi, ngay từ khi còn là một cậu bé, mang về kho báu lớn là nấm, thậm chí còn tìm thấy cả nấm củ mà bà Balek trả đến ba mươi xu một pao(5).

Ông tôi ghi tất cả những gì mà ông đã mang cho gia đình nhà Balek vào mặt sau của một tờ lịch: mỗi pao nấm, mỗi gam húng tây, với nét chữ trẻ con ông viết ở cạnh đó về phía bên phải số tiền mà ông đã nhận được cho mỗi thứ, ông viết nguệch ngoạc mỗi xu, từ năm ông bảy tuổi đến năm ông mười hai tuổi - năm 1900, và gia đình nhà Balek tặng cho mỗi gia đình trong làng một phần tư pao cà phê nguyên chất trong số cà phê nhập khẩu từ Brazil, vì hoàng đế đã phong quý tộc cho họ; cũng có bia miễn phí và thuốc lá sợi dành cho đàn ông, và trong lâu đài diễn ra một ngày hội lớn; nhiều xe ngựa đỗ ở con đường rợp bóng cây dương dẫn từ cổng vào lâu đài.

Nhưng trước ngày hội, cà phê được phân phát trong căn phòng nhỏ, trong đó từ gần một trăm năm nay có chiếc cân của gia đình nhà Balek, những người giờ đây mang tên Balek von Bilgan, vì theo truyền thuyết Bilgan, người khổng lồ, chắc hẳn đã có một tòa lâu đài lớn ở đó, nơi đang có những tòa nhà của gia đình nhà Balek.

Ông tôi thường kể cho tôi nghe, ông đã đi đến đó ra sao sau giờ học ở trường để lấy cà phê cho bốn gia đình: nhà Cech, nhà Weidler, nhà Vohla và gia đình của chính ông - nhà Brücher. Đó là buổi chiều trước ngày cuối cùng của năm: những phòng khách cần phải được trang hoàng, dán trang trí, và người ta không muốn cử bốn thiếu niên đi riêng rẽ đến lâu đài của gia đình nhà Balek chỉ để lấy cho mỗi gia đình một phần tư pao cà phê.

Và thế là ông tôi ngồi trên chiếc ghế băng bằng gỗ nhỏ hẹp trong căn phòng nhỏ, để cho cô Gertrud, gia nhân, đếm ra những gói một phần tám ki lô cà phê, bốn gói, và nhìn vào chiếc cân, trên đĩa cân bên trái của nó quả cân bằng đá nửa ki lô vẫn nằm nguyên; bà Balek von Bilgan đang bận rộn với những công việc chuẩn bị cho ngày hội. Và giờ đây, khi cô Gertrud định thò tay vào trong chiếc bình thủy tinh đựng những chiếc kẹo sạch sẽ thì phát hiện chiếc bình đã trống không; hàng năm chiếc bình lại được đổ đầy kẹo một lần, một cân kẹo loại này có giá một mác.

Cô Gertrud cười, nói “Cháu đợi đấy, cô đi lấy kẹo mới”, cùng với bốn gói một phần tám ki lô được đóng gói ở trong nhà máy và được dán kín. Ông tôi đứng lại trước chiếc cân mà trên đó ai đấy đã để quên quả cân bằng đá nửa ki lô, và ông tôi lấy bốn gói nhỏ cà phê, đặt chúng lên bên đĩa cân trống không, và tim của ông đập mạnh khi ông nhìn thấy chiếc kim đen của sự công bằng đứng lại ở phía bên trái bên cạnh chiếc vạch, đĩa cân có quả cân bằng đá nửa ki lô ở phía dưới và nửa ki lô cà phê lơ lửng khá cao trong không khí. Tim ông tôi đập mạnh hơn, như thể ông đang nằm đằng sau một bụi rậm ở trong rừng, đợi Bilgan, người khổng lồ, và ông lấy ra những hòn đá cuội từ túi quần khi ông luôn mang chúng bên mình để bắn bằng ná cao su những con chim sẻ đang mổ xung quanh những cây cải bắp của mẹ.

Ông tôi cần phải đặt ba, bốn, năm hòn đá cuội vào bên cạnh bốn gói cà phê, cho đến khi đĩa cân có quả cân bằng đá nửa ki kô nghiêng đi và cuối cùng chiếc kim nằm chính xác bên trên vạch đen.

Ông tôi cầm lấy cà phê từ đĩa cân, gói năm hòn đá cuội vào khăn mùi soa, và khi cô Gertrud trở lại cùng với gói to một cân đựng đầy những cái kẹo sạch sẽ lại cần phải đủ cho một năm để làm nổi lên màu đỏ ửng trên những gương mặt trẻ thơ, khi cô Gertrud trút những chiếc kẹo vào bình thủy tinh kêu loạt soạt thì ông tôi, cậu thiếu niên xanh xao, đứng ở đó, có vẻ như không hề có chuyện gì xảy ra. Ông tôi chỉ cầm lấy ba trong số bốn gói cà phê, cô Gertrud sửng sốt nhìn và hoảng hốt trước ông tôi, cậu thiếu niên xanh xao, người đã ném chiếc kẹo sạch sẽ xuống đất, giẫm bẹp nó và nói: “Cháu muốn nói chuyện với bà Balek.”

“Bà Balek von Bilgan á?” cô Gertrud hỏi.

“Đúng đấy, bà Balek von Bilgan”, ông tôi đáp; nhưng cô Gertrud chỉ cười nhạo ông, sau đó ông đi về làng lúc chiều tối, mang cà phê cho gia đình nhà Cech, nhà Weidler, nhà Vohla và quả quyết ông còn phải đi gặp mục sư.

Nhưng ông đi vào đêm tối cùng với năm hòn đá cuội của mình ở trong khăn mùi soa. Ông cần phải đi xa cho đến khi ông tìm được ai đó có một cái cân, được phép có một cái cân; ở hai làng Blaugau và Bernau không ai có cân, ông tôi biết điều đó, và ông đi xuyên qua chúng cho đến khi ông đến được thành phố nhỏ Dielheim, nơi dược sĩ Honig sống, sau hai tiếng đồng hồ đi bộ. Mùi thơm của bánh mới rán bay ra từ nhà ông Honig, và hơi thở của ông đã có mùi rượu pân(6), khi ông mở cửa cho ông tôi, cậu thiếu niên bị rét cóng, đồng thời ông Honig ngậm điếu xì gà ướt một đầu ở giữa đôi môi mỏng của mình, nắm chặt đôi bàn tay lạnh giá của ông tôi một lát và nói: “Thế nào, bệnh phổi của cha cháu tồi tệ hơn rồi phải không?”.

“Không, cháu đến không phải để mua thuốc, cháu muốn…”

Ông tôi cởi nút chiếc khăn mùi soa của mình, cầm ra năm viên đá cuội, đưa chúng cho ông Honig và nói: “Cháu muốn cân ngần này.” Ông tôi sợ sệt nhìn vào gương mặt của ông Honig, nhưng khi ông Honig không nói gì, không nổi cáu, cũng không hỏi gì thì ông tôi nói: “Ngần này thiếu ở sự công bằng”, và giờ đây ông tôi cảm thấy đôi bàn chân mình bị ướt sũng khi ông bước vào căn phòng ấm cúng. Tuyết đã lọt qua đôi giày rách, và ở trong rừng những cành cây đã giũ tuyết giờ đây đang tan ra xuống ông, ông mệt, đói và đột nhiên bắt đầu khóc, vì ông sực nhớ ra nhiều nấm, thảo mộc, hoa cỏ khô đã được cân trên cái cân mà ở đó thiếu trọng lượng bằng trọng lượng của năm hòn đá cuội ở sự công bằng. Và khi ông Honig lắc đầu, cầm năm hòn đá cuội trên tay, gọi vợ mình thì ông tôi sực nhớ ra những thế hệ bố mẹ, ông bà của ông tôi đã để tất cả nấm, hoa cỏ khô của họ cân trên chiếc cân đó, và điều đó trùm lên ông như một con sóng lớn của sự bất công, và ông còn bắt đầu khóc to hơn, ngồi xuống một trong những chiếc ghế ở trong phòng khách nhà ông Honig mà không được mời, đưa mắt nhìn chiếc bánh rán, tách cà phê nóng mà bà Honig tốt bụng, to béo bưng ra cho ông, và ngừng khóc khi chính ông Honig trở ra đằng trước từ quầy thuốc, xóc năm hòn đá cuội trong tay, nói nhỏ với vợ mình: “chính xác là năm đecagam(7) rưỡi.”

Ông tôi đi hai tiếng đồng hồ xuyên qua rừng về nhà, bị đánh đòn, im lặng, khi bị hỏi tại sao không mang cà phê về thì không nói gì, tính đi tính lại cả tối ở tờ lịch mà ông đã ghi chép tất cả những gì ông đã mang cho bà Balek đương thời, và khi đồng hồ điểm chuông lúc nửa đêm, nghe thấy những tiếng súng thần công từ lâu đài của gia đình nhà Balek, cả làng hò reo, tiếng lóc xóc của những cái lúc lắc kêu vang, khi các gia đình đã ôm hôn nhau thì ông tôi nói vào sự im lặng sau đó của năm mới: “Gia đình nhà Balek mắc nợ ta mười tám mác ba hai xu.” Và ông lại nghĩ đến nhiều đứa trẻ trong làng, nghĩ đến cậu em trai Fritz, người đã thu lượm nhiều nấm, nghĩ đến cô em gái Ludmilla, nghĩ đến hàng trăm đứa trẻ đã thu lượm nấm, thảo mộc và hoa cỏ khô cho gia đình nhà Balek, và lần này ông tôi không khóc mà kể cho bố mẹ, anh chị em trong nhà nghe về sự phát hiện của mình.

Khi gia đình nhà Balek von Bigan đi đến nhà thờ vào dịp đại lễ trong ngày đầu năm mới, chiếc phù hiệu mới - một người khổng lồ ngồi xổm bên dưới một cây thông - đã được sơn thành màu xanh và vàng ở trên xe ngựa của họ thì họ nhìn vào những gương mặt rắn rỏi, xanh xao của tất cả những người đang nhìn chằm chằm vào họ. Họ đã mong chờ những tràng hoa, một dạ khúc(8) vào buổi sáng, những tiếng tung hô và những tiếng reo hò ở trong làng, nhưng ngôi làng như đã bị tuyệt diệt khi họ đi qua, còn ở nhà thờ những gương mặt của những người xanh xao quay về phía họ, lầm lì và thù địch, và khi mục sư leo lên tòa giảng để thực hiện bài thuyết pháp ngày lễ ông cảm thấy sự lạnh nhạt của những gương mặt thông thường rất dịu dàng và hiền lành, ông nói ấp úng một cách khó nhọc bài thuyết pháp xuống phía dưới, và đi trở lại bàn thờ với khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi.

Và khi gia đình nhà Balek von Bilgan rời khỏi nhà thờ sau thánh lễ họ đi qua một hàng của những gương mặt lầm lì và xanh xao. Nhưng tiểu thư Balek von Bilgan đứng lại ở đằng trước tại chỗ những hàng ghế dành cho trẻ em, tìm gương mặt của ông tôi, cậu thiếu niên xanh xao Franz Brücher, và hỏi cậu: “Tại sao nhà ngươi đã không mang cà phê về cho mẹ mình?”.

Ông tôi đứng dậy và nói: “Vì gia đình tiểu thư còn nợ tôi rất nhiều tiền, số tiền đó bằng giá năm cân cà phê.” Và lấy ra năm hòn đá cuội từ trong túi quần của mình, đưa chúng cho tiểu thư Balek von Bilgan và nói: “ngần này, năm đecagam rưỡi, thiếu cho mỗi nửa ki lô ở sự công bằng của cái cân nhà tiểu thư”, và trước khi tiểu thư Balek von Bilgan còn có thể nói gì đó thì những người đàn ông và phụ nữ ở trong nhà thờ bắt đầu hát: “Ôi, Chúa ơi! Sự công bằng trên đời này đã giết chết Người…”.

Trong khi gia đình nhà Balek ở nhà thờ thì Wilhem Vohla, kẻ săn bắn trộm, đã đột nhập vào căn phòng nhỏ của gia đình nhà Balek, đã lấy trộm cái cân và quyển sổ to, dầy được bọc da, trong đó mỗi cân nấm, mỗi cân thảo mộc, mỗi cân hoa cỏ khô, tất cả những gì được gia đình nhà Balek mua ở làng đã được ghi vào, và cả buổi chiều ngày đầu năm mới những người đàn ông của làng ngồi ở phòng khách của nhà ông cố tôi và tính toán, tính toán một phần mười trong số tất cả những gì đã được gia đình nhà Balek mua. Nhưng khi họ đã tính được nhiều nghìn đồng Taler(9) và vẫn chưa tính xong thì những tên lính của quận trưởng đột nhập vào phòng khách của nhà ông cố tôi bắn giết, lấy đi chiếc cân và quyển sổ của gia đình nhà Balek bằng vũ lực. Đồng thời cô em gái nhỏ của ông tôi, Ludmilla, bị giết chết, một vài người đàn ông của làng bị thương, một trong những tên lính của quận trưởng bị Wilhelm Voha, kẻ săn bắn trộm, đâm chết.

Không chỉ trong làng của chúng tôi có bạo động, ở hai làng Bernau và Blaugau cũng có, và suốt gần một tuần trời công việc trong các nhà máy lanh bị đình trệ. Nhưng có rất nhiều lính đến, đàn ông và phụ nữ bị đe dọa bằng hình phạt tù, và gia đình nhà Balek ép buộc mục sư trưng bày công khai chiếc cân của mình ở trường học và chứng minh rằng chiếc kim của sự công bằng chỉ chính xác. Đàn ông và phụ nữ lại đi làm ở các nhà máy lanh. Nhưng không ai đi đến trường học để xem ông mục sư chứng minh sự chính xác của cái cân gia đình nhà Balek; mục sư đứng một mình ở đó, bất lực và buồn rầu cùng với những quả cân làm bằng đá, cái cân của gia đình nhà Balek và những gói cà phê.

Và bọn trẻ lại thu lượm nấm, lại thu lượm húng tây, hoa cỏ khô và mao địa hoàng, nhưng Chủ nhật nào ở trong nhà thờ cũng vang lên bài hát “Ôi, Chúa ơi! Sự công bằng trên đời này đã giết chết Người” ngay sau khi gia đình nhà Balek bước vào, cho đến khi quận trưởng ra thông báo ở tất cả các làng việc hát bài hát này bị cấm.

Ông bà cố tôi phải rời khỏi làng, rời khỏi nấm mồ mới đắp của con gái họ, họ trở thành những người đan sọt, không ở làng nào lâu, vì việc nhìn thấy cán cân công bằng sai lệch ở khắp nơi gây đau khổ cho họ. Họ kéo theo con dê gầy nhom ở đằng sau chiếc xe ngựa chậm chạp lăn bánh trên con đường làng và ai đi ngang qua chiếc xe của họ thỉnh thoảng cũng có thể nghe thấy ở trong xe tiếng hát: “Ôi, Chúa ơi! Sự công bằng trên đời này đã giết chết Người.” Và ai muốn nghe họ hát cũng có thể nghe câu chuyện về gia đình nhà Balek von Bilgan, một phần mười thiếu ở sự công bằng của chúng. Nhưng hầu như không ai nghe họ kể về việc đó.

Chú thích:

(1) Là món ăn truyền thống của nông dân.

(2) Món ăn nông thôn truyền thống từ bột nhào được chế biến từ bột ngô, bột báng hoặc tương tự, được rán trong mỡ hoặc luộc trong nước sôi rồi cắt thành từng miếng nhỏ.

(3) Đơn vị tiền tệ trước đây của Đức.

(4) Nơi chuẩn bị sữa và đồ ăn kiêng cho trẻ sơ sinh.

(5) Một nửa ki lô.

(6) Rượu mạnh pha nước nóng, đường, sữa, chanh.

(7) Đơn vị đo khối lượng: 10 gam.

(6) Khúc nhạc để kính tặng hay kính lễ ai (thường là cho người yêu và được diễn tấu ở dưới cửa sổ).

(9) Đồng tiền bằng bạc của Đức cũ, đồng tha-lơ.

Dịch giả: Phạm Đức Hùng

0 đã tặng

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Gửi
Hủy

Cùng chuyên mục

Bí mật về ông chủ Cornille

Văn học nước ngoài 1 ngày trước

Chiếc tù và

Văn học nước ngoài 2 tuần trước

Anh ở đâu, tình yêu của em?

Văn học nước ngoài 2 tuần trước

Con hổ nhà thơ

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Cái chết đến cùng với sự thừa kế

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Kỳ nghỉ trăng mật

Văn học nước ngoài 1 tháng trước

Nạn châu chấu ở vùng Sahel

Văn học nước ngoài 1 tháng trước